Trang nhất » Tin Tức » CHƠN LÝ

TÔNG - GIÁO

Thứ bảy - 06/08/2011 16:17
Khi xưa đức Phật sanh tiền, Thì Ngài chỉ dạy đạo-lý, Cho chúng-sanh tu; Bấy giờ đạo Phật còn là thời pháp-lý, Giáo-lý hay là triết-lý. Cũng như một cội cây, Gốc cái còn và các nhánh, Đều sống nươngt heo mình mẹ ;
TÔNG - GIÁO

TÔNG - GIÁO

Khi  xưa  đức Phật sanh tiền,

Thì  Ngài chỉ dạy đạo-lý,

Cho  chúng-sanh  tu;

Bấy  giờ đạo  Phật còn  là thời pháp-lý,

Giáo-lý  hay là triết-lý.

Cũng  như một cội  cây,

Gốc cái còn  và các nhánh,

Đều  sống nươngt heo  mình mẹ ;

Tăng chúng tuy chia ra đông nhiều  Giáo-hội,

Mà vẫn quy hợp về theo Phật,

Nên  cách  tu  học không có sữa đổi chi  cả.

Người  ta  gọi đó  là thời chánh-pháp !

Từ ngày  Phật tịch  cho  đến nay,

Tăng chúng chia  lìa, phân chia tông-giáo,

Cũng như các nhánh  cây, mất thân mình mẹ,

Bị chiết lạc đem  trồng mỗi nơi,

Tùy phong   thổ mà  biến đổi

Không còn tánh chất giống y như hồi nguyên xưa nữa.

Đối  với Phật khi xưa,

Đạo là con đường giác-ngộ,

Chớ không gọi tên    đạo chi  cả.

Các giáo-pháp Ngài nói  ra y theo  chơn-lý

Chớ không gọi tên  là giáo-pháp  chi cả.

 Đạo-pháp có là do nhơn -duyên,

Không lường đếm, chớ không phải  một h ay hai  nhứt  định,

Hoặc giữ  hoài  một việc ;

Nhờ  vậy  mà tăng chúng  của Phật,

Học hành rộng-rãi uyên-thâm, không còn  sở-chấp.

Bấy giờ  đạo Phật là  đạo của  tất  cả,

Giáo-pháp  của Phật là giáo-pháp  của  tất  cả.

Phật  không chia rẽ   đạo  giáo  nào,

Ngài không cạnh  tranh với  ai  hết.

Ngài không chê-bai chỉ-trích  một ai,

Trong  các đẳng  cấp,  ai muốn đi,

Xuất-gia nhập  đạo theo Ngài  cũng được,

Ngài  chỉ giữ  riêng  một lớp  dạy.

Ngài  không thâu nạp, người tại-gia cư-sĩ, làm trong đệ-tử.

Không  có giành choán tín-đồ   của tông-giáo.

Cư-gia  ai theo  đạo  nào cũng  được. Kẻ cư-gia  nào  có lòng tin tưởng Ngài, thì Ngài hkuyên người  ấy, hãytập lần noi gương về y  theo  Phật,   Pháp,  Tăng đó, mà  đi tới,  và nên giữ  lần từ năm   giới, tám  giới  để bước lên mười giới  tập xuất-gia. Ngưòi cư-sĩ  chỉ có tâm quy-y  Tam-Bảo, tập xuất-gia giải-thoát theo  Phật Tăng, là gọi tâm  theo  Phật, chớ năm giới, tám giới,  còn  là bậc chư Thiên cõi   trời, là  người thiện nhơn, y như c ác tông giáo, chưa được ở trong  đạo Khất-sĩ giải-thoát của Phật  Tăng; chưa được gần bên Phật!

Giới-luật của  Tăng là bức tường  hàng rào, đón ngăn  giữa  sự  xuất-giavà  tại-gia, không cho  chung lộn. Người  tại  gia nhưcòn ở ngoài  hành rào, chỉ có  kẻ xuất-gia nhập đạo mới    được ở trong  hàng rào,  trong  đạo, theo hầu bên Phật. Khi xưa mặtdầu là Phật dạy  Tăng,  coi  sóc cho Tăng ,  Tăng đi khít  bên Phật, thếmà  Phật  cũng  không nhận  một ai  là đệ-tử của Ngài, vì  đối  với  cái đạo  của chư Phật, Ngài  là người thaythế  dạy  bảo dùm thôi, Ngài  không xưng thầy, Ngài  không gọi  học  trò,  Ngài  dứt bỏ cái ta và của  ta trói  buộc, Ngài  cũng chưa   chắt tin một  đệ-tử  nào,    s ẽ t heo  đúng y như Ngài, và Tăng chúng cũng   không ai  dám xưng gọi thầy  tôi, tôi là đệ-tử   Phật, vì  sợ  mình không giữ   nổi  đạo  hạnh y  như Phật, là hư  tiếng Phật.

Mặc dù  Giáo-lý thì  nói  rộng, để khuyến  khích cư-gia hay  Tăng chúng.  Phật gọi  chung là  tứ chúng :  hai bên xuất-gia   nam  nữ  là đệ-tử Phật, hai  bậc tại   gia  nam  nữ là  thiện-tín Phật, Phật  khuyên  gia-cư nên phải  xuất-gia  vàTăng chúng  là thầy của  cư-sĩ, vì   tăng chúng  như học trò ở học trong trường. Còn cư-sĩ là còn  đang tập  học, còn ở bên  ngoài đời tội  lỗi ; cư-sĩ  ngày  xưa theo  Tăng, chớ không theo  Phật nhảy cấp; cư sĩ  ngó ngay  mục-đích của Phật,  mà theo thì phải  noi  gươngt heo  Tăng, vì  tăng là nấc thang gần trên cho  cư sĩ. (Có  cư gia   mới   giúp Tăng sư, sự   ăn mặc ở  bịnh, nhờ đó  các sư mới  dễ tu học). Tăng chúng   còn, là đạo Phật   còn, mà Tăng chúng còn là  do cư-sĩ,  vậy  nên cư-sĩ cũng có  công lớn với   đạo Phật, về bên  duy-vật, tài  thí   hộ   đạo. Nhờ  công-đức đó mà để được xất-gia về sa,   nghĩa là sau  này  tu  tới  mãi, cũng  sẽ được thành  Phật, sau  theo  Tăng chúng.

Phật  xưa gọi  tứ chúng là  kẻ  vòng trong , vòng ngoài,  trong mỗi khi thuyết-pháp,  nên  gọi tứ chúng    kẻ  Thinh-văn,   thính-pháp văn kinh. Nhưng trái  lại, Tăng chúng  không ai dám t ự  cao, mà  xưng mình  là đệ  tử  Phật, vì  d 9ức Phật    đấng hoàn toàn cao-viễn  qúa,  còn tăng chúng, thì  ít   kẻ diệt được phàm tâm ; hơn nữa  cư gia c ũng lại khiêm-nhượng, không dám gọi mình là  đệ tử của  các sư , vì các sư phần n hiều  chứng  qủa thánh, còn  cư-gia  thì  đang bị  lấm lem  dơ nặng ; chỉ  có sa-di  tấp xuất-gia, theo  khít bên Tăng, mới  tạm  gọi  là đệ tử  của Tăng thôi, chớ  cư-gia  thì chỉ nhận mình là thiện-tín  chung, chưa  d ám chịu  làm đệ-tử riêng một vị  sư, vì bởi  cư-gia chưa thật hành  giống y theo  Tăng sư được.

Như thế  là tránh cho  Tăng   sư khỏi mang tiếng “   Giáo  bất   nghiêm sư chi đạo” . Cư-gia  cũng    thể là tín đồ của các  tông-giáo,  ngoài  đạo Phật nữa, vì  cư-gia  là người còn  đang ở  trong cảnh thế, còn  mắc phải xác thân của-cải trong g ia-đình  xã-hội.

Như vậy là sự xã-giao phải rộng rãi, mới  tránh được tai   nạn cho thân. Đạo giáo  nào, sự phước thiện nào, việc lành phải  nào, cũng  nên tán -trợ, nâng cao, giúp tiếp, để  ủng hộ tinh-thần dân-tộc, va2  c ũng thêm  sự lợi-ích cho mình nữa. Như thế nghĩa là  cư-gia chưa có thầy, như sa-di, và chưa có  ông thầy  nào, bảo lãnh cư-gia cả, cư-gia là tín đồ của  lẽ  phải,  chớ   không phải  của  riêng  phật. Phật   không có   choán tín -đồ, của  các tông-giáo  khác đạo.

Ngài  sống chung tất cả , tất cả sống chung với Ngài, Ngài  và tất  cả đều     chung một trường, Ngài     một ông thầy  giáo, dạy  lớp trên của   tất  cả , chớ  không phải  đạo   riêng; Ngài   không cạnh  tranh, vì bài vở, lớp học, sự   dạy của  Ngài, khác xa lớp dưới, cũng rất  ít ai theo được.

Nhờ vậy mà ai  cũng mến Phật, Phật đi đến  đâu  cũng được, và kẻ trí-thức của các đạo  giáo, ai  cũng muốn  xuất-gia  theo Ngài  mà tôn    Ngài là thầy chung  của  tất cả.

Bởi  ngài là người đã  giác- ngộ chơn-lý , không  còn ngăn  chấp nhỏ hẹp, chẳng giống như đời sau  nầy, vậy nên mới  gọi thuở ấy    thời chánh-pháp.

Thuở ấy cũng  có cư-gia hết lòng theo  đạo  Phật, tuy chưa   được vào trong đạo  theo các sư, vì bởi  nhơn-duyên phước đức thiện căn kém  thiếu,  chớ họ cũng  tu  hành  tinh-tấn lắm; không được xuuất-gia đắc qủa A-La-Hán hiện tại, thì họ hành đạo  Bồ-Tát, tập giũ-giới  Bồ-Tát,  để được đắc qủa  A-La-Hán lúc lâm chung cũng  n hư cái vỏ  ruột của  trái, tuy  thua  kém bây giờ, chớ  cái hột thì sau này c ũng  thành-tựu được, theo sau ai nấy; vì người  cho  rằng :  hôm   nay  người còn nghiệp tội  nhiều, chưa giải-thoát xuất-gia bằng  thân đặng, thì  họ  tập lần cái   tâm, nuôi sẳn   hột  giống Khất-sĩ  trong tâm.  Hễ ngày  nào rảnh rang, thân  không còn bận  nữa, thì  là tâm họ cũng  được xuất-gia theo  sau  các sư, hay nhờ tâm trí đó, mà đời  sau  được xuất-gia giải-thoát. Đúng  theo  lẽ, nhiều  kiếp ác mới  tới thiện, nhiều kiếp thiện mới làm  cư-sĩ, nhiều   kiếp  cư-sĩ mới đến  xuất gia, nhiều  kiếp  xuất-gia mới  thành  phật. Như thế là chúng-sanh tuừ cái  vô-minh ác quấy tội  lỗi, tiến lần lên, nhà  sư nào  đi trước mà  tuu hành  rãi-đãi, là  kẻ đi sau phải  theo  kịp  được.

Vậy  nên cư-gia rất  kỉnh trọng  các sư trì giới, nhập-định, đắc-trí-huệ, hơn các sư còn tội   lỗi, vì các sư  tu chín-chắn, là lúc nào cũng đi  trước hơn  họ , họ phải  noi  theo và theo không kịp; chớ với các sư tầm  thường, thì cũng  chẳng  hơn họ   bao  nhiêu, vì bởi  họ thấy các s ư  còn  tội-lỗi y như  họ, cư-gia    mắt sáng, là nhờ  gần  gũi Tăng, và cũng  biết Luật Tăng; cũng có cư-gia học  xem kinh sách, chẳng tha    tăng cho  lắm.   

Tăng có hơn  họ là bằng giới định huệ,  họ mới kỉnh  trọng, chớ sự  thông  minh văn học, họ có kém Tăng đâu, bởi  thế  cho  nên đối  với tăng tội-lỗi, thì  họ gọi  là không phải Tăng, họ chỉ  kiêng nể cái áo bề ngoài thôi, chớ thật  ra họ  không kỉnh trọng.

Lỗi  ấy  tại  Tăng bỏ đạo, chớ  không phải  tại  họ, Tăng cải sửa không theo  Phật, thì  trách  sao cư-gia lại  chẳng cải  sữa, mà bỏ Tăng. Ở  xứ  này  : Tăng không còn nhóm  họp ngày Rằm, ba mươi  đọc giới-bổn nữa, Tăng mạnh ai nấy  tu, nên  hư t ự ý, không  cần thuộc  luật, không có  Giáo-hội.

Tăng đã rời  rạc, chòm nhóm đua tranh, không hợp tác thì tránh s ao  cư-gia lại không lập  ra  tông-giáo,  đảng-phái tư riêng. Vì họ như rắn  không đầu, bởi  Tăng chúng không cầm đầu họ đặng ; cũng vỉ thế mới có kẻ cư-gia lầm  lạc bởi  không ưa một  hai  vị    sái  quấy, mà họ khinh luôn cả Phật ,pháp, Tăng, khinh luôn cả sự xuất-gia của  họ, họ không bước  đến sự xuất-gia, họ lại còn    ngạo kẻ  xuất-gia   là khác nữa.

Cũng có kẻ  cư-sĩ lại chấp  mình, tự  cho  mình cư-sĩ mãi là đúng rồi, họ lập đạo   giáo riêng, lập ra  chòm nhóm quay đầu  ố nghịch lại  đạo  Phật,  để phải vướng cảnh thiên-ma đọa  lạc, không đường giải-thoát giác-ngộ, thật    tội  nghiệp cho  họ; mà lỗi  của họ là tại  nơi  Tăng sư sái  quấy vậy.

Cũng vì  thế  mà có kẻ dám  nói : cả Tăng sư là bị qủa báo, bị  đền tội,  đang  tu,  chịu khổ nhọc, còn  c ư-gia là đã  tu  rồi, thành phật rồi,  bây  giờ là đang hưởng phước, không cần tu  xuất-gia nữa; họ nói kẻ xuất-gia  là vì  hoàn cảnh trốn tránh, thất  bại, chớ không có ai xuất- gia  vì giác ngộ, vì  lòng từ-bi  thương  xót  chúng-sanh đâu; thế là cư-gia hủy-báng Tăng-bảo, và kẻ cư-gia với  người xuất-gia ấy, là hai  người đồng lõa, giết  phá  đạo  Phật.

 

1.- SỰ  HIỂU LẦM

Có kẻ lại hiểu  lầm, là cư-sĩ, Bồ-Tát lớn  hơn A-La-Hán, họ không hiểu  lý nghĩa A-La-Hán, là Ứng Cúng, danh từ Ứng Cúng có, là  do  nơi hai chữ  Khất-si, mà Khất-si là chơn-lý của võ-trụ chúng-sanh, Ứng Cúng là xứng đáng cho người cúng dường lễ-bái. Nếu không phải    Khất-sĩ, thì đâu có chữ Ứng Cúng A-La-Hán. Đó là một  danh từ mà Phật khi xưa là một vị đại A-La-Hán, sau khi tu hạnh  Bồ-Tát đã nhiều đời, mới  thành  được A-La_Hán  đó. Phật cũng gọi  là như lai, nên cũng gọi  là có tu hạnh  Bồ-Tát, mới đắc qủa Như-Lai, vậy thì Như-Lai tức là A-La-Hán.

Đều  là thầy của  Bồ Tát ? Bồ Tát có hai hạng ? A-La-Hán cũng  có hai hạng ? Bồ-Tát phàm và Bồ-Tát  thánh; A-La-Hán  thánh và A-La-Hán phật. A-La-Hán Phật là trên Bồ-Tát  thánh. A-La-Hán  thánh là  trên Bồ-Tát phàm.

1.     Như-Lai-Đại-Thánh (đắc hủ thần-thông) A-LA-HÁN  PHẬT.

2.     Bồ-Tát (đủ lục-thông) BỒ -TÁT THÁNH.

3.     Bích-Chi (đủ lục-thông) BÍCH-CHI THÁNH

4.     A-La-Hán (đủ lục-thông) A-LA-HÁN THÁNH.

5.     Bất-Lai (chưa đủ lục-thông) BẤT-LAI PHÀM.

6.     Nhứtt-Vãng Lai (chưa đủ lục-thông) NHỨT VÃNG  LAI PHÀM.

7.     Nhập-Lưu (chưa đủ lục-thông) NHẬP- LƯU PHÀM

Người xuuất-gia có thể đắc đuủ 7 qủa  thành Phật.

Người tại-gia có thể  đắc 4 qủa thành Thánh.

 Bậc Bồ-Tát phàm là  còn  ở trong 3 qủa : nhập-lưu, nhứt-vãng-lai, bất lai, chưa đủ lục-thông , kêu  gọi là tập tu  hạnh Bồ-Tát, tập làm việc  pháp  thí, chớ  chưa phải  Bồ-Tát thiệt-thọ; nghĩa là chữ Bồ-Tát là giác tha rất rộng, mỗi một  việc làm  phải nào, cũng  gọi là pháp  giác-tha Bồ-Tát được hết. Cư-sĩ thiện nhơn chư  thiên, mà biết làm  việc pháp  thí,  tu-tập phước huệ để cho mau dứt nghiệp, đặng  đi xuất-gia, cũng gọi là tuhạnh Bồ-Tát vậy. Tất cả chúng-sanh, cũng đều gọi là Như-Lai  tử  , hay  Bồ-Tát tử được hết, tịnh  là Như-Lai, động là Bồ-Tát. Cư-sĩ là Bồ-Tát tập tu, theo phép lục độ vạn hạnh, chớ  chưa đắc lục độ vạn hạnh. Đắc lục-độ vạn hạnh, là chỉ có Khất-sĩ Bồ-Tát mới đợc. Vì người xuất-gia Khất-sĩ, là đã Bố-Thí hết rồi tài thí, thân thí, một lần rồi đi tu, và đang hành pháp thí; NHẪN-NHỤC đi xinăn mỗi buổi sáng, và mặc đồ hoại sắc, y bát một bộ; TINH-TẤN là đi hoài không ở một chỗ; TRÌ-GIỚI là giữ 250 giới xuất-gia trọn đủ; THIỀN-ĐỊNH là nhập đại định dưới gốc cây; TRÍ -HUỆ là cắt đứt phiền-não, bằng sự thuyết-pháp tham-thiền luận đạo. Người Khất-sĩ có thểđắc qủa thánh hiện- tại, là nhờ sự xuất-gia giải-thoát, lục căn thanh-tịnh, đủ phép lục-thông, thành A-La-Hán, rồi kế đó đi tu thiền-định thêm  thành BÍCH-CHI,  và sau trở lại giáo -hóa chúng-sanh làm BỒ-TÁT-THÁNH, có nhiều kiếp Bồ-Tát-Thánh, mới sẽ đắc qủa NHƯ-LAI, hay ĐẠI A-LA-HÁN, PHẬT : nơi đây BỒ-TÁT-THÁNH ấy mới cao hơn bậc A-La-Hán thánh vậy. Người cư-sĩ rán lắm  thì sau khi chết, mới đắc lục-thông thành A-La-Hán, chớ hiện  tại  còn đang sống, thì cũng khó mà đắc ba qủa : Nhập-lưu, nhứt vãng-lai, và bát-lai được; cũng như các sư khó mà đắc qủa A-La-Hán, Bích-Chi, Bồ-tát lắm. Và c7 sĩ thì chưa rồi độ bố-thí, nhẫn- nhục, tinh-tấn, rán lắm là đắc ba qủa phàm này; chớ trì giữ 250 giới cụ-túc, để thu-thúc lục-căn thanh-tịnh là chưa, chưa nhập đại định được, và cũng chưa phải là bậc trí-huệ, diệt hết phiền-não, như bậc Bồ-Tát pháp sư, tham-thiền luận đạo, thuyết-pháp đặng. Cư-sĩ thì chẳng đắc đặng thần-thông.

Như vậy thì tiếng cư-sĩ  Bồ-Tát là pháp-lý nói rộng ra, để khuyến-khích cư-gia tập-tu, để làm thiện nhơn, khó mà diệt  trừ gốc tội. Vì bởi còn đang ở trần lem lấm. Bồ-Tát đa hạnh, là bậc Bồ-Tát Thánh có đủ lục-thông, có nhiều hạnh kiểm nết hạnh của bậc thầy, chớ không phải nhiều hạnh, là bỏ giới-luật mà làm cư-sĩ trở lại, hay đi làm sái quấy. Bậc Khất-sĩ pháp sư Bồ-Tát thay, cư-gia sao  lại tưỏng mình    Bồ-Tát, bậc  thầy, không lẽ để dạy cho người khác nhiễm-ô bùn bụi đời đời mê- đắm, tuưỏng rằng : Phật xưa là cư-sĩ. Như thế tức là đọa- lạc  rồi, vì giết hại sự tấn-hóa xuất-gia giải-thoát cuủa mình và ai nấy. Không lẽ cư-sĩ lại tưởng rằng : mình đã hơn bậc ThánhTăng xưa, có đuủ lục-căn  thanh-tịnh, giải-thoát, và có lục-thông rồi ư; đành rằng tiếng xuất gia, là thân-tâm xuất-gia, chớ thân xuất-gia là chưa đủ. Nhưng đối với chúng-sanh, nghiệp tội lâu đời, tâm  trí yếu đuối, nếu thân chẳng xuất-gia, tâm nào chắc được xuất-gia, hòng  đắc thần-thông trí-huệ, qủa A-La-Hán nơi cư-sĩ. Kìa Tăng chúng từ xưa, hay như Phật, lấy cảnh tạo tâm trước, rồi tâm mới tạo cảnh sau. Các Ngài cần phải xuất-gia bằng thân trước, để tạo tâm xuất-gia, thành A-La-Hán trước, thế mà các Ngài còn ít ai đắc được, và qủa Bồ-Tát Thánh, đối với các Ngài còn xa qúa, đâu phải sự nói suông nghe dễ, như là không cần xuất-gia, cũng đắc qủa Bồ-Tát cao hơn A-La-Hán, và Phật là tại gia cư-sĩ, đang ở trong bùn lầy, không cần ra khỏi, không cần diệt trừ ác tội. Tuy lý Phật nói rộng ra : Ai ai cũng có thể tu để thành Phật, nhưng mà nào ai đã tu, và ai là người dám gọi mình là phật rồi đâu, mà không tu, không giải-thoát; không lẽ vì chê bay một hai vị sư Tăng sai quấy, mà chê bỏ luôn giáo -pháp Phật, để hiểu bằng cách sái kháclạc lầm. Tấm lòng như thế, thì đâu còn phải là Bồ-Tát, mà sao lại chẳng tự mình xuất-gia Khất-sĩ, làm Tăng sư cho đúng -đắn, để cứu chữa đạo phật lại, vừa là để giúp ích cho chúng-sanh, lại được tấn-hóa cho mình nữa. Hay là tại sao chẳng đi tìm kiếm chơn Tăng, để gom hiệp lại, khuyếch-trương Tăng-bảo, thống-nhứt tăng-già, chưã sữa giới-luật Phật lại, chớ để chia lập chòm nhómcư-gia, ố Tăng phá đạo, ích chi như thế ? không lẽ ai rồi cũng tranh nhau để lo phá đạo ?

 Vậy nên cư-Gia phải thấy mình, cần xuất-gia giải-thoát, để làm du-Tăng Khất-sĩ. Vì Bồ-Tát Thánh thì dạy Tăng, và không luân hồi; còn Bồ-Tát phàm là dạy cư-sĩ thiện nhơn, còn phải luân-hồi. Như thế chánh-nghĩa cư-gia là thiện-nhơn, trí-thức, chư Thiên, tập hạnh Bồ-Tát, để tích trữ phước đức, đặng xuất-gia, chớ chưa là Bồ-Tát thiệt thọ. Vì lời nói của cư-sĩ, không thể bảo dạy kẻ khác xuất-gia cho đặng, là bởi mình chưa xuất-gia, cũng như mình còn đang tội-lỗi, mà bảo kẻ khác dứt chừa tội-lỗi, là không được.  

Cư-sĩ muốn cho lời nói của mình có hiệu qủa, ai cũng tu nghe theo mình, quốc-độ mình được rộng dài to lớn, thì phải bước tới xuất gia Khất-sĩ cho trong sạch  đã, cho đúng câu qui-y Tam-Bảo, và lời nói cho đúng với sự  thật hành , mới  chắn chắn sẽ thành Phật đặng. Như vậy là phải bõ sở-chấp nhỏ hẹp, tư riêng, gia-đình, xã-gội, mà phải  phát tâm chánh-đẳng chánh-giác, sống chung cả thế-giới, học dạy cho chung cả chúng-sanh, mới nên lớn sự đặng; Phải vậy chớ chi cư-sĩ cứ thật lo tu, mà đừng nói Bồ-Tát A-La-Hán gì hết, là tốt qúa.

 

2.- TĂNG SƯ CHIA RẼ

 Trong số Tăng đồ khi xưa của Phật, có ba hạng trí, kẻ đang học, người đang tu, kẻ đang dạy, gọi là bậc Thinh-Văn, Duyên-giác và Bồ-Tát. Ba chặng này, khác nhau bằng tâm-trí, chớ giới-luật y bát cũng như nhau, đều gọi chung là Tăng, Khất-sĩ, Tỳ-kheo; hay gọi là Tỳ-kheo có ba hạng giáo-lý, ba cỡ pháp.

Cũng như  loài ngưòi có ba  hạng trí, mà cũng là một loài người chung, chớ không phải chia rẽ phân-biệt. Nghiã là Tăng chúng tu học giới, định, huệ, kẻ cao người thấp, chớ không phải là khác đạo, khác giáo-pháp; thế mà từ khi Phật tịch đến nay, người ta lại phân chia ra làm Đại-thừa Tiểu-thừa, đối-nghịch, chỉ-trích lẫn nhau. Một đàng các sư gọi mình ăn chay là Đại-thừa, mà không có y bát trì-giới, các sư tự mình cải-cách theo nho đạo Khổng-Tử . Một đàng khác các sư trì-giới y bát, nhưng lại ăn dùng cá thịt gọi là Tiểu-thừa.

Sư Tiểu-thừa thì chuyên học pháp vi-tế tự độ nhiều hơn. Sư Đại-thừa thì học pháp độ-tha bao-quát bên ngoài. Cũng như cái nhỏ của hột, và cái lớn của vỏ, mà chẳng có thịt cơm, nên không thành trái đặng.

Các sư lại không cho Tăng chúng xem học bài vỡ lẫn nhau ; Tiểu-thừa hay Đại-thừa ngày nay, không phải là trình độ cỡ trí của mỗi nhà sư, mà là sự cạnh tranh của về ngoài tôn giáo, một Sa di, một em bé, một cư-gia cũng gọi là Đại-thừa, hay Tiểu-thừa nữa.

Người tu đời nay ít ai chịu hiểu rằng : Không có tam thừa gì bề ngoài cả, tam thừa là tâm-trí của mỗi người, từ nhỏ tới lớn, từ hẹp tới rộng, chớ không phải mới sanh ra cũng Đại thừa, hay tu thành Phật, già lão rồi, mà cũng còn gọi là Tiểu-thừa mãi. Có người lại nói rằng : có y bát  Khất-thực là Tiểu-thừa. Vậy ra đức Phật khi xưa trọn đờiy bát Khất-thực, đức Phật ấy cũng là Tiểu-thừa sao?

Phải chi các sư đời nay chỉ cứ lo tu là tốt hơn, dứt lòng tư-kỷ ngã-ái, dung-hòa hiệp một lại, thành ra mỗi sư đều ăn chay, và có đủ y bát giới-luật, thì chắc là chánh-pháp của Phật hưng thạnh trở lại; cũng nhuư cái chén bể gắn dính liền, cũng như cái vỏ lớn, caí hột nhỏ, dính hiệp nhau, thì làm sao chẳng có được thịt cơm nơi khoảng giữa, mà thành nên trái giác thơm ngon như vậy. Chớ chi các sư mà hợp-tác, chắc tu mau đắc qủa lắm, và chúng-sanh sẽ hưởng được biết bao mùi vị của chánh-pháp đạo-Phật, còn nếu các sư mà cia rẽ, thì có khác nào xé hai thân hình Phật, giết đạo Phật khó mà ai tu thành đạo  được, và không ai được toàn-giác bởi mắc phải động tâm vì nhau mãi mãi, dễ gì tu; còn tín-đồ cư-gia thì điên-đảo, rớt rơi chán nản, tách lạc tư riêng cả. Đã vậy mà nơi xứ Ấn Độ, ngày nay các sư lại tranh-đấu với nhau, thì trách gì cư-gia không lập riêng môn phái, và thế-giới trách sao chẳng đại-loạn.

Chớ chi mà các sư hiểu rằng : phải học, học hết thảy các pháp, phải tu, tu hết thảy các pháp. Ai cũng phải cho được toàn học, toàn-giác, toàn-năng, chớ đừng giữ riêng cái sơ-giác, độc-giác, hay đại-giác thiếu kém; chỉ có giới, định, huệ là phải tu học, chớ không có thừa gì cả. Dầu trình độ mình đã đến Đại-thừa, là để cho người ta tự nhận biết,chớ đừng nói ra, mà phải nên khiêm-nhượng. Còn trình-độ mình có Tiểu thuừa là để cho người kia tự hiểu, chớ đừng dòm ngó nhau, là tốt lắm ; vả chăng sự tự  cao là dốt, hạ mình là hay, vậy người thật tu học, cũng nên gọi mình là vô-thừa, nghĩa là không có thừa gì của tự mình nói ra mới phải, và chỉ có một sự tu  là quý hơn cái học, quý hơn cái nói cãi cao-kỳ vậy.

Như thế thì cần gì môn phái  đồng nhiều, không thể dạy, cho hư đạo pháp. Phật xưa đâu có nạp thâu nhiều người  không giới-hạnh. Phật xưa đâu có dụng số đông người, người  tu dầu ít, ít mà chơn- chánh đắc quả, tiếng tăm thơm phức vang lừng, nào phải đợi số đông, cái đông không kỷ-luật. Khi xuưa còn Phật hiện tại,bậc A-La-Hán rất đông, mà đệ tử rất ít, ngày nay Phật Thánh ít, mà Tăng chúng lại thâu  nhiều, thì có khác nào gạo, lúa,  tấm, cám, đều ở chung cả  trên một cái  sàng, làm cho sàng phải  nứt gãy ; chớ chi    các sư lại tự sàng đi cho  rơi  bớt ; giới-luật là sàng, sàng giới-luật nứt gãy, là tại Tăng ch1ng đông nhiều qúa nặng ; ca1c sư có  biết đâu rằng : viên ngọc quý là rất ít, chớ cát đất thì  lại nhiều. Đạo Phật mất là tại Tăng chúng đông, và tín-đồ nhiề, ai  cũng tưởng lầm mình, là con trưởng nam của Phật. Thật là nguy hại thay cho đạo  Phật. Thế mà đến nay, các sư lại  còn  gọi  là giữ mãi gốc Tổ Thầy, mà Tổ Thầy xưa đâu có chia rẽ. Đâu có chẳng tu theo phép nào  thuận hạp, cho tất cả ta và người, cho  hạp với đạo  của ta và người, mà nên cho  tất cả ; và các sư là phải đoạn nhứt thiết ác, tu  nhứt thiết thiện, độ nhứt thiết chúng-sanh mới phải là người  tu Phật đạo.

 

3.- TÍN-ĐỒ THẤT LẠC

Thuở xưa hồi Phật sanh tiền, Phật và Tăng chỉ thuyết-pháp, đem chơn-lý dạy cho  người tu tấn hóa, chớ  không có thờ phượng chi  cả ; các người đi đi mãi  không ở  trụmột chỗ ; tịnh-xá người ta  cất ra, để thỉnh Phật Tăng đến nghỉ chơn, và dạy đạo  ; tịnh-xá làm bằng cây  lá sơ-sài, gồm cả một khu vườn rộng, cốc am, nhà giảng ; nhà giảng là nhà mát trống rộng để che mưa nắng, trong khi giảng đạo tạm thời, khi nào các Ngài đi, thì bỏ hết, vì Tăng chúng luôn luôn theo Phật (chỉ trừ ra các bậc Bồ-Tát và Bích-Chi, Duyên-giác, là đi hành đạo riêng đưọc). Chính giữa nhà giảng là pháp tọa tháp của Phật, ngoài ra không có chi cả, tứ chúng  Thinh-Văn thảy đều ngồi trên mặt đất mà nghe pháp. Đạo pháp khi xưa là dạy tu, ai nấy lo giải-thoát  tu tâm, chớ không có bận-rộn sự ngoài, vì vậy mà có rất nhiều  người đắc lục-thông, trí-huệ, thành A-La-Hán, và không có học nơi văn-tự nghề-nghiệp, thờ cúng lễ-bái chi cả. Cá sư chỉ lễ Phật trong khi  nghe pháp, và trong khi học hỏi thôi ; còn  ngoài giờ khác thì  lo học giới, tham-thiền,  nhập-định ; tuy chẳng phút nghỉ không thong-thả trong tâm,  mà bên ngoài  thì thật như là rảnh rang vô sự.

Những lúc về  sau này không có Phật, người ta bèn ghi  chép lời nói  của Phật, phân làm Kinh, Luật, Lận để học, và sau  truyền ra nhiều xứ, nhiều thứ  chữ, tiếng đọc khác nha, và ý nghĩa không còn xác thật ! Vì vậy mà  lắm kẻ tu-gia  chỉ đọc tụng hken tán, tin-tuưởng lời  nói  của Phật là linh-thiêng, chớ không cần  hiểuc hi  lkà nghĩa-lý, ý dạy  chi cả ; vả lại  Tăng chúng cũng lu mờ, thì cư-gia biết hỏi  nơi  ai nghĩa chữ, nào  ai dạy pháp-lý, nào có ai  chỉ rõ ý nghĩa  của Phật dạy, tráchgì chơn-lý chẳng khó ai đạt được ! Cho  nên dầu ai có muốn vượt qua ngoài lề tông-giáo, của tín-ngưỡng, thì phải  rất khó khăn, sưu-tầm khảo-cứu, bươi vẹt ra  từnggai  chông gút  mắc, mà còn phải tránh xa tông-giáo, để khỏi phải vướng nạn xích  -xiềng bắt buộc. Thời kỳ tông-giáo xa Phật, người  ta ít lo tu trí đức, ai cũng muốn cho  đạo đông, tín đồ nhiều, kinh sách nhiều, mở rộng lớp dưới, dắt-dùi kẻ ác lên thiện, mà quên lãng  suư xuất-gia, giải-thoát, thế nên các sư cũng đem mình chung lộn  với cư-sĩ,và cư-gia thì lôi kéo trở lại các sư, cư-gia muốn cho  ai cũng là cư-sĩ hết, bỏ đạo  Phật, để  lập ra đạo cư-sĩ, thiên-đường, cho thạnh hành sáng tỏ, mạnh-mẽ thế-lực. Cũng có số ít cư-gia  lại q1a kiêu xa, chưa hiểu ra mục đích, cho rằng : giáo-pháp cư-gia là vững bền đúng-đắn, cư-gia khỏi xuất-gia như thế  là cư-gia ấy thất-lạc ; sa-đọa mất tấn-hóa, vì việc  làm ấy tuy ít-lợi cho kẻ tội-lỗi thế-gian, mà vướng phải trọng tội hủy  Tăng báng đạo. Bởi không phải cả thảy Tăng sưđều là càn lếu.Cư-gia dầu thông học đến đâu, mà còn ở trong trần-tục, dễ gì tu hành đắc trí-hệ thần-thông được, mặc dầu  các sư tuy ít học, mà cái học chín-chắn bằng sự tham-thiền, học đến đâu tu hành cho kịp đến đó, chẳng  là có kết-qủa hơn cái học mênh mông, vả lại học tuy được mà chưahành được ; thì  chắc gì ai dám  tin trọn   lời  nói đó ; tài học không bằng tu đức, đuức trên tài  dưới, tài đức phải nương nhau  mới  đặng. Ca1c Phật Thánh xưa xuất-gia  là để tu, từ nơi  chỗ thật hành t  đức, mà sanh trí-huệ toàn-học, nhờ  học chậm-rãi khó-khăn kinh nghiệm, mà pháp bảo đối với các Ngài, hưởng được mùi vị, hay qúi thơm ngon lắm. Ngày xưa ít  học mà nên nhiều,  ngày nay học nhiều mà nên ít, là cũng bởi trọng học tài, và tưởng lầm là cuư-gia đã trọn-lành trong sạch.

Đạo Phật ngày nay không còn cao quý, là bởi tăng già suy kém vật chất thạnh hành. Đạo Phật rồi đây sẽ gia nhập bằng thẳng  về theo thế sự vào các ngoại giáo  khác ; Phật thích-Ca sẽ không còn hình bóng tiếng tăm nữa.

Xem ngó lại, giữa chánh-điện của ngôi chùa ngày nay ngôi chùa nguy-nga  lộng-lẫy, mà chẳng có một pháp-lý ích lợi dạy đời vì tín-đồ, vì tông-giáo, vì số  đông thấp dưới, các sư làm nguười  thủ tự chó tín đồ, đâuu có rảnh rang dạy đạo nói pháp ; vì muốn cho đông người lui tới, nên phải  bày ra sự thờ-phượng, tượng cốt đủ đầy ; Tiên Phật hội-đồng một chỗ qủy thần hộ trợ, đủ thứ; vì tín-đồ bày ra sự tín-ngưỡng, chớ ít kẻ lo tu học tìm đạo.

Thuở xưa Phật ngồi trên pháp tọa ; giữa nhà mát, dạy đạo tứ  chúng, thật  là đơn giãn qúa,sau đó khi không còn Phật, các sư chỉ treo tượng Phật trên cao, phía dưới các sư thay  Phật, đọc lại  cho  ai  nấy nghe  những lời  của Phật hoặc có sư thuyết-pháp đặng, thì tự  nói ra thay Phật, khỏi  cần đọc tụng, như vậy  là cũng còn   khá. Đến nay ng7ời  ta lại  cất  ra nhà thờ, thờ  đủ thứ, đóng cửa lạnh tanh,  không còn ánh sáng,  đạo lý  chi cả. Kẻ tu học không ai bước tới, chỗ  ấy  chỉ dành riêng cho đám người cầu  vái, họ tới  nơi để  cầu vái, chớ không phải là đạo tràng như xưa kia nữa, và kể từ nay, chưa biết tới chừng nào, chúng ta mới sẽ gặp nhau trong một nhà mát sơ-sài, cây lá trống-trãi, không còn sự thờ -phượng ấy, mà lại có  một vị Bồ-Tát pháp-sư dạy đạo  như xưa ; hay nơi dưới cột cây, một vị Duyên-giác gảng-giải đạo lý, cho những bậc khá cao, đã vượt qua khỏi  sự mê-tín tà-kiến.

Đời nay vật-chất qúa thạnh, con người ngộp  lún qúa sâu, khó mà lên đặng, nên sự tu thì ích , để một người kia đến khi chết, thì cả thảy lo sợ giùm, xúm nhau lại cầu  siêu. Đưa đi về tịnh thổ bằng kinh-kệ, hoặc bằng cách làm chay cúng thí ; mà ít ai hiểu  ra  lý nghĩa chữ siêu-độ : siêu là vượt qua, độ tức là bến bờ bên kia, nghĩa là ly tục xuất-gia hay bước lên bờ giác (miếng đất Phật ấy, là nền Tăng- bảo giới-luật). Lại lắm  kẻ không  ai xuất-gia, khi sống lúc chết đều ghét Khất-sĩ, khinh Tăng mà phải  biể siêu-độ làm tăng Khất-sĩ được đâu; thử ngay những kẻ sống nào, không muốn giải-thoát  bỏ trần, mà bảo kẻ kia nghe theo, đi xuất-gia, làm sao cho được.

Đành rằng chữ siêu là vượt qa, ví như siêu địa-ngục là ngạ-qủy, siêu ngạ-qủy là súc-sanh, siêu súc-sanh là A-tu-la, siêu A-tu-la là nhơn loại, siêu nhơn loại là chư Thiên, siêu chư thiên là  Phật. Sự vượt qua c4ng như là tấn-hóa, hay giải-thoát từ cấp, cũng  giống như  siêu tham-lam là  bố thí, siêu giận là nhẫn-nhục, siêu si-mê là tinh-tấn, siê ác là thiệnv.v… Vạn ức pháp, pháp nào  mà lại không siêu, vượt qua khỏi pháp kia kém thấp, cũng như vượt qua khỏi  vật chất đến tinh-thần, siêu khỏi tham-lam là bố-thí, lên khỏi đời là đạo ! Như Phật khi xưa nói  pháp dạy người  tấn-hóa là siêu, khi được xuất-gia vào đất Tăng-bảo là độ. Người con đối  với  cha mẹ tội-lỗi, phép phải lạy cầu xin cha mẹ tu hiền, là cầu siêu cha mẹ ; đánh con ngỗ nghịch răng dạy nó, cũng làm cho bảo phải siêu ; khuyên lơn bạn hữu tu-  hành cũng là để cho siêu, anh đi ăn trộm, em đi phá đám cũng là phép cầu siêu, anh làm quấy mắc tội tù, em đi tố-cáo thêm  tội, để ở lâu ngày thêm trong ngục khám, đặng chừa bỏ hết tội-lỗi, còn em thì ở ngoài lo nuôi dưỡng, như vậy cũng là cách cầu siêu. Bao nhiêu những cách cầu  siêu ; Bằng phạt, thưởng, hay khuyên dạy, là để cho  giác-ngộ giải-thoát, vậy nên phải giải-thoát mới là siêu lạc độ. Còn sự tấn-hóa từng pháp kêu là siêu tạm.

Cũng vì thé mà khi xưa, con khyên cha mẹ đi t không được nên phải rước Phật, Bồ-Tát Pháp-sư đến nhà, trước đãi cơm, và cầu xin dạy đạo cho cha mẹ, siêu độ giải-thoát xuất-gia. Đời sa ít có pháp-sư, nên cư-gia  thỉnh các sư đọc lại  lời nói của Phật ; và nếu không có Tăng nữa, thì sẵn có kinh sách, cư-gia số đông xúm lại đọc tụng, và giảng-giải nghĩa-lý, khuyên tu học hỏi với nhau, cũng là phép siêu độ. Thế mà đời nay, có kẻ hiểu lầm, lo-lót Ngọc Hoàng, hối lộ Diêm-Vương, bày lắm sự  giả-dối, như vua, qan, già sang hiện tại ; thật vậy, cư-gia ít ai hiể rằng : chỉ có pháp-thí là pháp cầ siêu độ.

Phật xưa kia thyết-pháp giảng đạo dạy tu, là siêu độ cả chúng-sanh, và muốn cho người siêu độ, là tự mình phải siêu độ trước. Nghĩa là muốn cho ai nấy tu giải-thoát đến bờ kia, là tự mình phải xuất-gia tu giải-thoát trước đã, để cho họ coi đó coi theo, và mình dẫn đầu cho họ. Khi xưa đức  Phật nếu chẳng xuất-gia, thì đâu có bảo ai xuất-gia đặng, vậy thì pháp cầu siêu, là phải tự mình đi tu giải-thoát trước, cho kẻ kia đi theo mới được. Nhứ thế thì  những ai có muốn siêu độ chúng-sanh, là phải xất-gia giải-thoát làm Tăng Khất-sĩ ; vì chúng -sanh mà ta đi tu hành đạo ; cắt đứt tham ái của ta, thì tham ái của người mới mong được diệt.

 

TÓM LẠI

Đạo Phật ngày nay đã không còn giống y như xưa nữa ; ai cuũng gọi là đệ-tử Phật, niệm tên Phật mà  không giữ giới-luật. Tông-giáo càng rộng, sự tín-ngưỡng càng nhiều, thì giới-lật càng mất, triết lý càng lu; Tăng đồ  càng suy, thì vật-chất càng thạnh. Tăng là giềng mối tâm hồn, là tinh-thần sanh-chúng, thế mà Tăng chia lìa, thất lạc, thì thần vật-chất, sao chẳng hoành-hành, chôn lấp chúng-sanh. Trần thế trách sao không nguy hại ?

Vậy muốn chấn-hưng lại đạo Phật trong một lúc, thì hãy thu hẹp lại sự tín-ngưỡng tông-giáo, tín-đồ, cũng như từ xưa, mở cửa thâu vào đã lâu, nay cũng nên đóng cửa tạm ngưng lại một lúc, để lựa chọn sắp phân lớp học ; chớ không leẽ đạo Phật lại là hỗn-tạp. Và nên phải bành-trướng giới-luật, khuyến-khích cư-sĩ xuất-gia, chỉnh đốn Tăng-già, thống nhưt thế-giới quần Tăng đại hội ; mới mong kéo nỗi đời vật-chất trở lại tinh-thần đặng, Tăng chúng phải đủ giới-luất để quy hợp cư-gia, để gắn liền Tông-giáo, hầu vẹt bóng mê tín, đem cõi đời trở lại ban ngày y như Phật hồi xưa khi trước.

Mỗi cư-sĩ đều có phận sự phải xuất-gia, mỗi tăng sư đều có phận sự phải dung hòa giữ giới, người hành chưa đặng, thì phải biết kính trọng những kẻ đang hành, phải hộ-pháp nâng cao tán-thán, chớ đừng gièm-pha ố chọi, hãy nghĩ đến đạo đến Phật, đến chúng-sanh, mà đừng kiêu sxa ém tội. Phải khuyến-khích người tu, phải giúp- đỡ người ta hơn mình, phải hợp tácvới họ, phải sữa chữa điều kém thiếu, phải nâng cao giới-luật, đó mới là phận sự của tăng bảo, mới gọi là tăng bảo không tạo tội. Phải tạo nấc thang cho người lên, phải chỉ   bè mớ cho người đến, phải sắm tàu ghe để vớt người nguy, đó mới là phận sự chánh của Tăng-già, đối với cõi đời tràng giang đại hải, của chúng-sanh ngày nay đang lặng hụp. Thật vậy, chhỉ có tăng chúng mới lập đạo đặng, rồi thì các tông-giáo sẽ tự-nhiên thống nhất.

Còn nếu đạo Phật bằng chẳng đặn chỉnh-đốn y như vậy, thì âu là Tăng sư ai nấy hãy tách rã riêng ra, tu-trì độc-giác, khắc nghiêm giới hạnh, ở ẩn rừng sâu, cũng còn khá hơn là sự xuất-gia cẩu-thả, ở nơi thành-thị. Chi cho phải bị cư-gia hủy-mạ.

Có như thế, thì cái nạn chiến-tranh tông-giáo, tứ nay mới đặng dứt hết. 

Tổ sư Minh Đăng Quang

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Share |
Từ khóa: n/a
Comment addGửi bình luận của bạn
Mã chống spamThay mới

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

Tin Được Quan Tâm Nhiều

Tập San Đuốc Sen

Chia Sẻ Cùng Bạn Đọc

Tổ Sư Minh Đăng Quang

TO SU

Hình Ảnh Tịnh Xá Ngọc Sơn

Tinh Xá Ngọc Sơn

slideshow | Viewer

Quảng Cáo

Giác Ngộ
Đức Phật Bổn Sư
Học Viện Phật Giáo Việt Nam
đạo phật ngày nay
HT Trụ Trì Tịnh xá Ngọc Sơn
SU PHU THICH GIAC TRÍ

Bạn nghe thuyết pháp thường xuyên không?

Chưa nghe bao giờ

Một hai lần gì đó

Một lần vào lễ Phật đản

Ba bốn lần trong 1 năm

Một lần trong 1 tháng

Hai lần trong tháng

Một lần trong tuần

Nghe nhiều lần trong tuần

Liên Hệ Online

Ban Biên Tâp

Đông Hồ

Bảng Tin Thời Tiết

Đang truy cậpĐang truy cập : 18


Hôm nayHôm nay : 1023

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 51906

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 7843965