Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên
- Thứ năm - 16/08/2012 20:35
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
· Sau khi chấp nhận lời thỉnh cầu của vị Phạm-thiên Sahampati về việc truyền-bá Giáo-pháp, Ðức Phật suy nghĩ:
- Ai là người đầu tiên sẽ được thọ hưởng Giáo-pháp? Ai là người có thể lãnh hội Giáo-pháp mau chóng nhất?
Alara-Kalama (vị đạo sư đầu tiên của thái tử Siddhattha) là người có học vấn, thông-minh, là bậc thiện-tri-thức, đã lâu rồi không còn bao nhiêu cát bụi trong mắt. Hay là Như-Lai sẽ truyền Giáo-pháp cho vị này trước nhứt?
Một vị trời liền hiện ra trước mặt Ðức Phật, đảnh lễ ngài và bạch rằng:
- Bạch đức Thế-tôn, đạo-sư Alara-Kalama đã từ trần một tuần nay rồi.
Ðức Phật dùng thiên-nhãn kiểm nhận điều này. Rồi ngài nghĩ đến vị đạo-sư thứ nhì của ngài là Uddaka-Ramaputta. Vị trời lại xuất hiện bạch rằng đạo-sư Uddaka-Ramaputta vừa mới qua đời đêm hôm trước. Một lần nữa Ðức Phật lại dùng thiên-nhãn kiểm-nhận. Rồi ngài nghĩ đến năm vị đạo-sĩ rất tinh-tấn, đã từng tận tâm phục-vụ ngài trong sáu năm dài tu khổ hạnh. Ngài dùng thiên-nhãn quan-sát, nhận thấy năm vị này là Kondanna, Bhaddiya, Vappa, Mahanama-Kulika và Assaji hiện đang ở tại Lộc-Uyển (Vườn Nai, Migadava), trong làng Isipatana (hiện nay là Sarnath), cách thành phố Benares (hiện nay là Varanasi) 10km về phía bắc.
1- Lên đường đi Lộc-Uyển
Ðức Phật định dùng con đường lớn để đi từ thành-phố Gaya đến thành-phố Benares. Trên đoạn đường từ Bồ-Ðề Ðạo-Tràng (Bodhgaya) đến Gaya, có một đạo-sĩ khổ hạnh tên Upaka[1] gặp Phật, hỏi:
-Này đạo hữu, ngũ quan của đạo hữu thật thanh tịnh, nước da của đạo hữu thật tươi sáng. Ðạo hữu xuất gia với ai? Thầy của đạo hữu là ai? Ðạo hữu truyền-bá Giáo-pháp của ai?
Ðức Phật đáp bằng bài kệ:
-Như-Lai đã vượt qua tất cả, đã thông suốt tất cả.
Ðã thoát ly tất cả mọi ràng buộc,
Từ bỏ tất cả, không còn ái nhiễm,
Tự mình thấu hiểu tất cả, còn gọi ai là thầy?(Kinh Pháp Cú, bài 353)
Như-Lai không có thầy,
Không ai bằng Như-Lai.
Trên thế-gian và kể cả chư thiên,
Không ai có thể sánh với Như-Lai.
Như-Lai là một vị A-la-hán trên thế-gian này,
Là một vô thượng sư;
Tự mình thành bậc Toàn Giác,
Tâm vắng lặng và thanh-tịnh.
Như-Lai đang trên đường đến xứ Kasi
Ðể chuyển bánh xe Pháp;
Và giữa thế-giới người mù,
Như-Lai sẽ gióng trống Vô-sanh.[2]
-Này đạo hữu, đạo-sĩ Upaka hỏi vặn, vậy phải chăng đạo-hữu đã tự nhận mình là A-la-hán, là bậc quyền-lực siêu-phàm?
- Các bậc siêu-phàm đều giống Như-Lai,
Ðều đã tận diệt mọi ô nhiễm,
Khắc-phục tất cả những điều xấu-xa tội-lỗi.
Thế nên, này Upaka, Như-Lai là bậc siêu-phàm.
- Có thể như vậy được sao? Có thể như vậy được sao?Upaka cúi đầu lẩm-bẩm, rồi đi rẻ sang đường khác trong khi đức Phật tiếp tục đi về hướng bắc.
Ðức Phật vẫn bình-thản lên đường đi Gaya, rồi đi từ Gaya đến Benares, từ Benares đến Isipatana, rồi tìm đến Lộc-Uyển (Migadava).
Theo kinh sách Sri-Lanka thì Upaka về sau cười vợ, ông rất thương yêu vợ nhưng bị vợ tiêu xài phung phí, mất hết gia sản, ông tìm đến Phật xin xuất gia và được Phật độ.
2- Ông Kondanna và 4 người bạn xuất gia[3]
Ðức Phật đến Lộc-Uyển, thuộc làng Isipatana (hiện nay là Sarnath), vào đầu tháng ba dương lịch năm 589 trước tây lịch. Thấy Ðức Phật đang từ đàng xa đi đến, năm vị đạo-sĩ nhóm ông Kondanna bàn tính với nhau sẽ không đảnh lễ ngài với lòng tôn-kính như xưa. Các vị ấy hiểu lầm ngài khi ngài từ bỏ lối tu khổ hạnh để thực-hành lối tu trung-đạo. Các vị ấy nói với nhau:
- Này các đạo-hữu, sa-môn Gotama đang đi đến chúng ta kia. Sa-môn ấy đã không bền chí cố gắng tu khổ hạnh, đã trở lại đời sống lợi-dưỡng xa-hoa. Sa-môn ấy không đáng cho chúng ta niềm-nở đón tiếp và cung-kính phục-vụ. Ta không nên rước bát và rửa chân y. Nhưng dầu sao ông ta cũng thuộc dòng vua chúa, chúng ta cũng nên dọn một chỗ ngồi để sẵn, nếu ông ta muốn ngồi thì cứ ngồi.
Tuy nhiên, khi Ðức Phật đến gần, vẻ trang-nghiêm và oai-nghi của ngài tự nhiên cảm-hóa năm vị đạo-sĩ. Không ai bảo ai, người đến rước bát, người dọn chỗ ngồi, người đi lấy nước cho ngài rửa chân, và gọi ngài bằng "đạo-hữu" (avuso), lối xưng-hô thường dùng giữa những người bạn đạo, hoặc để người bề trên xưng-hô với kẻ dưới. (Hiện nay có tháp Chaukhandi kỷ niệm nơi đức Phật gặp lại năm anh em ông Kondanna. Tháp này là một ụ đất lớn, trên đỉnh có một tháp canh xây bằng gạch).
Ðức Phật mở lời khuyên dạy:
- Này các Tỳ-kheo (Bhikkhu, bhiksu), không nên gọi Như-Lai bằng tên hay bằng "đạo-hữu". Này các Tỳ-kheo, Như-Lai là bậc Thế-tôn, là đấng Toàn-Giác. Này các Tỳ-kheo, hãy nghe đây, Như-Lai đã thành đạo-quả Vô Sanh Bất Diệt. Như-Lai sẽgiảng dạy Giáo-pháp giác ngộ và giải thoát. Nếu thực-hành đúng theo lời chỉ dạy của Như-Lai thì chẳng bao lâu các thầy cũng sẽ chứng-ngộ do chính trí-tuệ trực-giác của quý thầy, và trong kiếp sống này quý thầy sẽ đạt được một đời sống vô cùng thiêng-liêng cao-cả. Chính vì muốn đi tìm đời sống cao-thượng ấy mà nhiều con nhà quyền-quý đã rời bỏ gia-đình, sự-nghiệp để sống đời không nhà cửa.
- Này đạo-hữu Gotama, trước kia, với bao nhiêu kỷ-luật nghiêm-khắc và khổ hạnh mà đạo-hữu còn chưa đạt được kiến-thức siêu phàm nào hoặc chứng-ngộ nào xứng đáng với một vị Phật. Bây giờ đạo-hữu đã từ bỏ sự cố-gắng, trở về đời sống xa-hoa lợi-dưỡng thì làm sao đạt được một kiến-thức đặc-biệt siêu phàm hoặc một chứng-ngộ xứng đáng với một vị Phật?
- Này các Tỳ-kheo, Như-Lai không hề xa-hoa, không hề ngưng cố-gắng, và không hề trở lại đời sống lợi-dưỡng. Như-Lai là đức Thế-tôn, là đấng Toàn-Giác. Này các Tỳ-kheo, hãy nghe đây, Như-Lai đã thành đạt đạo quả Vô Sanh Bất Diệt và sẽ giảng-dạy Giáo-pháp giác ngộ và giải thoát. . Nếu thực-hành đúng theo lời chỉ dạy của Như-Lai thì chẳng bao lâu các thầy cũng sẽ chứng-ngộ do chính trí-tuệ trực-giác của quý thầy, và trong kiếp sống này quý thầy sẽ đạt được một đời sống vô cùng thiêng-liêng cao-cả. Chính vì muốn đi tìm đời sống cao-thượng ấy mà nhiều con nhà quyền-quý đã rời bỏ gia-đình, sự-nghiệp để sống đời không nhà cửa.
Lần thứ nhì năm đạo-sĩ vẫn giữ nguyên thành-kiến và tỏ ý thất vọng. Ðến lần thứ ba, sau khi Ðức Phật lập lại lời xác nhận, năm đạo-sĩ vẫn giữ vững lập-trường, tỏ ý hoài-nghi. Ðức Phật hỏi lại:
- Này các Tỳ-kheo, Các thầy có biết một lần nào trước đây Như-Lai đã nói với các thầy như thế không?
- Quả thật không.
Ðức Phật lập lại một lần nữa rằng ngài là đấng Toàn-Giác, và chính năm đạo-sĩ cũng có thể chứng-ngộ nếu thực-hành đúng theo lời chỉ dạy của ngài.
Ðó là những lời nói chân-thành do chính Ðức Phật thốt ra. Năm vị đạo-sĩ là bậc thiện trí, mặc dù đã có thành-kiến không tốt, khi nghe Ðức Phật lập lại nhiều lần như vậy, cũng đã nhận-định rằng Ðức Phật đã thật-sự thành-tựu đạo quả vô thượng và có đầy đủ khả năng để hướng-dẫn mình. Năm thầy bấy giờ đã tin lời Ðức Phật, bèn thỉnh Ðức Phật đến một nơi thanh-nhàn mát-mẻ, trong vườn nai, cách nơi gặp-gỡ độ trên một cây số, ngồi xuống, yên lặng lắng nghe Ðức Phật thuyết kinh Chuyển Pháp Luân (Dhamma-cakka-pavattana)[4].
3- Ðức Phật thuyết kinh Chuyển Pháp Luân[5] (năm -589)
Ðến canh ba đêm đó, dưới ánh trăng rằm vằng vặc, Ðức Phật nói:
Này các tỳ-kheo, có hai cực-đoan(anta) mà hàng xuất-gia (pabbajitena) phải tránh:
1 - Sự xu-hướng theo dục-lạc các căn (Kamasukhallikanuyoga), vì như thế là phàm-tục, thấp-hèn, thô-bỉ và tai hại;
2 - Sự nghiêm-khắc trong lối tu khổ-hạnh (Attakilamathanuyoga), vì như thế là đau-đớn, không xứng thánh hạnh và vô ích.
Như-Lai đã từ bỏ cả hai cực-đoan ấy, theo con đường Trung-đạo(Majjhima Patipada) để phát-triển nhãn-quan (cakkhu), tri-kiến (nana), và tiến đến an-tịnh[6] (vupasamaya), trí-tuệ cao-siêu (abhinnaya), giác-ngộ (sambodhaya), và niết-bàn (nibbana, nirvana).
Này các tỳ-kheo, thế nào là con đường Trung-đạo mà Như-Lai đã áp-dụng để phát-triển nhãn-quan, tri-kiến và tiến đến an-tịnh, trí-tuệ cao-siêu, giác-ngộ và niết-bàn?
Ðó là Bát Chánh Ðạo[7], gồm có:
1- Chánh-kiến (samma ditthi, là thấy biết sự vật đúng theo thật tướng vô thường, thật thể vô ngã, và thật tánh không của chúng; không lầm theo biên kiến, tà kiến; người có Chánh-kiến là người thông hiểu Tứ Diệu Ðế, biết đời là khổ nên không tham luyến, biết nguyên nhân của khổ nên không sợ chìm đắm trong sanh tử luân hồi, biết tâm tịch diệt là an-lạc thanh-tịnh, biết Bát-chánh-đạo là con đường giải-thoát đứa đến hạnh-phúc chân-thật vĩnh-cửu ),
2- Chánh-tư-duy (samma sankappa, là suy nghĩ đúng theo Chánh Pháp để có thể mang đến an vui, hạnh phúc cho tất cả mọi người, để hiểu rõ Chơn-lý),
3- Chánh-ngữ (samma vaca, là nói lời hòa nhã, chân chính, hợp đạo lý, hữu ích cho người nghe, hoằng pháp lợi sanh),
4- Chánh-nghiệp (samma kammanta, là hành động chơn chánh, lợi mình, lợi người, giúp người hết khổ được vui, giữ ba nghiệp thân khẩu ý thanh tịnh),
5- Chánh-mạng (samma ajiva, là sinh sống bằng nghề chơn chánh không xúc phạm đến thân mạng, tài sản kẻ khác),
6- Chánh-tinh-tấn (samma vayama, là siêng làm điều lành, năng tránh điều ác),
7- Chánh-niệm (samma sati, là luôn luôn nhớ các điều lành nên làm, nhớ các điều ác nên tránh, nhớ pháp môn tu tập; Chánh-niệm tối cao là Vô-niệm),
8- Chánh-định (samma samadhi, là luôn luôn giữ tâm thanh-tịnh, sáng-suốt, không tán-loạn).
Ðến đây Ðức Phật giảng về Tứ Diệu Ðế như sau:
1) Này các tỳ-kheo, đây là sự thật về Khổ(dukkha-ariya-sacca, Khổ đế)!
Sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, không ưa thích mà gặp là khổ, yêu thương mà phải xa lìa là khổ, mong cầu mà không được là khổ. Tóm lại, bám víu vào thân ngũ uẩn[8] này là khổ.
2) Này các tỳ-kheo, đây là sự thật về Nguyên-Nhân Của Khổ(dukkha-samudaya-ariya-sacca, Tập đế).
Chính tham-ái (tanha) là nguyên-nhân của tái-sanh (ponobhavika), với sự hợp-tác của lòng thiết-tha khao-khát mong được cái này, cái kia trong cuộc sống. Chính tâm tham cầu dục-lạc (kamatanha), tham cầu hiện-sinh (bhavatanha) và tham cầu vô-sinh (vibhavatanha) là nguyên-nhân của tái-sanh và đau khổ.
3) Này các tỳ-kheo, đây là sự thật về Hết Khổ(dukkha-nirodha-ariya-sacca, Diệt đế).
Chính là khi tâm đã hoàn-toàn xa-lìa và tận diệt tham-ái, không còn ham muốn lợi danh, không còn chạy theo dục vọng các căn. Ðó là tâm rời bỏ, từ-khước, thoát-ly và không luyến-tiếc, không vướng mắc.
4) Này các tỳ-kheo, đây là sự thật về Con Ðường Ðưa Ðến Hết Khổ(dukkha-nirodha-gamini-patipada-ariya-sacca, Ðạo đế).
Chính là Bát Chánh Ðạo, gồm có Chánh-kiến, Chánh-tư-duy, Chánh-ngữ, Chánh-nghiệp, Chánh-mạng, Chánh-tinh-tấn, Chánh-niệm và Chánh-định.
Ðến đây đức Phật bắt đầu thực hiện tam chuyển pháp luân như sau:
1.1- Ðây là Khổ đế (tức là sự thật về các phiền-não, đau-khổ trong vòng sanh tử luân hồi, như đã giải thích ở phần Sự Thật Về Khổ).
Này các tỳ-kheo, Khổ đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
1.2- Ðây là Khổ đế các thầy nên nhận-biết (parinneyya).
Này các tỳ-kheo, Khổ đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
1.3- Ðây là Khổ đế Như-Lai đã nhận biết (parinnata).
Này các tỳ-kheo, Khổ đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
2.1- Ðây là Tập đế (tức là sự thật về các nguyên nhân của phiền-não, đau-khổ và sanh tử luân hồi, như đã giải thích ở phần Sự Thật Về Nguyên Nhân Của Khổ).
Này các tỳ-kheo, Tập đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
2.2- Ðây là Tập đế các thầy nên tận diệt (pahatabba).
Này các tỳ-kheo, Tập đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
2.3- Ðây là Tập đế Như-Lai đã tận diệt (pahinam).
Này các tỳ-kheo, Tập đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
3.1- Ðây là Diệt[9] đế (tức là sự thật về niết-bàn an lạc thanh tịnh, là chân hạnh-phúc, như đã giải thích ở phần Sự Thật Về Hết Khổ).
Này các tỳ-kheo, Diệt đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
3.2- Ðây là Diệt đế các thầy nên chứng ngộ (sacchikatabba).
Này các tỳ-kheo, Diệt đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
3.3- Ðây là Diệt đế Như-Lai đã chứng ngộ (sacchikatam).
Này các tỳ-kheo, Diệt đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
4.1- Ðây là Ðạo đế (tức là Bát Chánh Ðạo, như đã giảng ở phần đầu kinh này).
Này các tỳ-kheo, Ðạo đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
4.2- Ðây là Ðạo đế các thầy nên thực hành (bhavetabba).
Này các tỳ-kheo, Ðạo đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
4.3- Ðây là Ðạo đế Như-Lai đã thực hành (bhavitam).
Này các tỳ-kheo, Ðạo đế này là pháp chưa từng được nghe trước đây. Chính Như-Lai đã thấy, biết, hiểu, chứng-nghiệm và sáng tỏ.
Rồi để kết thúc phần "tam chuyển pháp luân", Ðức Phật nói:
Này các tỳ-kheo, nếu Như-Lai chưa hoàn-toàn thấu-triệt Bốn Thánh Ðế này về ba phương-diện[10] và mười hai phương-thức[11] một cách hoàn-toàn sáng tỏ thì Như-Lai đã không xác-nhận trước thế-gian này gồm cả chư thiên, Ma vương, Phạm-thiên, đạo-sĩ, giáo-sĩ, trời và người rằng Như-Lai đã đạt được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác (anuttara samma-sambodhi).
Này các tỳ-kheo, đến khi Như-Lai đã hoàn-toàn thấu-triệt Bốn Thánh Ðế này về ba phương-diện và mười hai phương-thức một cách hoàn-toàn sáng tỏ thì Như-Lai mới xác-nhận trước thế-gian này gồm cả chư thiên, Ma vương, Phạm-thiên, đạo-sĩ, giáo-sĩ, trời và người rằng Như-Lai đã đạt được Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác .
Và lúc ấy tri-kiến và tuệ-giác (nanadassana)phát sanh: Tâm Như-Lai được giải-thoát một cách vững chắc, không còn lay-chuyển. Ðây là lần giáng sanh cuối cùng của Như-Lai, Như-Lai sẽ không bao giờ tái sanh nữa.
Ðức Phật giảng xong, năm vị tỳ-kheo vui mừng tán-dương lời dạy của đức Thế-tôn. Ngài Kondanna liền chứng được pháp-nhãn thanh-tịnh (dhammacakkhu)[12] và ngài thấy rằng "Cái gì có sanh tất phải có diệt " [13].
Lúc Ðức Phật chuyển Pháp Luân, chư thiên trên quả địa-cầu hoan-hô: "Pháp Luân này quả thật tuyệt diệu! Không có đạo-sĩ, giáo-sĩ, chư thiên, Ma-vương hoặc Phạm-thiên nào trên thế-gian có thể giảng được như đức Thế-tôn đã giảng tại Lộc-Uyển (Vườn Nai)trong làng Isipatana, gần Benares ".
Nghe như vậy, chư thiên ở các cung trời Tứ-Ðại-Thiên-Vương (Catum-maha-rajika), Ðao-Lợi (Tavatimsa), Dạ-Ma (Yama), Ðâu-Suất-Ðà (Tusita), Hóa-Lạc (Nimmanarati), Tha-Hóa-Tự-Tại (Paranimmitavasavatti), và chư Phạm-thiên ở các cõi trời Phạm-Chúng thiên (Brahma Parisajja), Phạm-Phụ thiên (Brahma Purohita), Ðại-Phạm thiên (Maha-Brahma), Thiểu-Quang thiên (Parittabha), Vô-Lượng-Quang thiên (Appamanabha), Quang-Âm thiên (Abhassara), Thiểu-Tịnh thiên (Parittasubha), Vô-Lượng-Tịnh thiên (Appamanasubha), Biến-Tịnh thiên (Subhakinha), Quảng-Quả thiên (Vehapphala), Vô-Tưởng thiên (Asanna), Vô-Phiền thiên (Aviha), Vô-Nhiệt thiên (Atapa), Thiện-Kiến thiên (Sudassana), Thiện-Hiện thiên (Sudassa) và Sắc-Cứu-Kính thiên (Akanittha) cũng đồng thanh hoan-hô.
Trong khoảnh-khắc ấy tiếng hoan-hô vang dội, làm cho cả mười ngàn thế-giới thuộc cõi Phạm-thiên đều rung chuyển mạnh-mẽ. Một hào-quang rực-rỡ chiếu sáng thế-gian. Ðức Thế-tôn liền nói: "Kondanna quả đã giác ngộ! Kondanna quả đã giác ngộ! ". Do đó ngài Kondanna có tên là Annata Kondanna (A-nhã Kiều-Trần-Như), có nghiã là "Kondanna là người đã giác ngộ".
Qua ngày hôm sau, lúc đức Phật thuyết pháp cho hai vị tỳ-kheo thì ba vị kia đi khất thực, rồi đến giờ ngọ chia ra cho sáu người ăn. Ngày kế thay phiên nhau, hai vị đi khất thực, ba vị ngồi nghe Phật thuyết pháp.