Thi hóa Tiểu sử Đức Tổ sư Minh Đăng Quang
- Chủ nhật - 14/04/2013 09:39
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
THIỀN HOA KHÁNH ĐẢN
Đất tiên nay nở mạch rồng,
Minh Đăng nay tỏ rạng hồng phương Nam.
Giữa vùng Tiền Hậu, Trung giang:
Sóng thiêng chào đấng siêu phàm đản sinh.
Sao Phòng giáng hiện anh linh:
Làng Phú Hậu, quận Tam Bình – Vĩnh Long…
Trời tháng chín lộng thu phong,
Nguyễn Thành Đạt, tính danh vàng,
ý Hoàn là tự, (Lý… Hoàn… nguyên… chăng?).
Nhân sinh, tiếng đã gọi rằng…
Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng thiên chân.
Nguyễn Tồn Hiếu, là phụ thân;
Phạm Thị Nhàn, ấy là thân mẫu Người.
Thánh thai chẵn một năm trời,
Hài nhi thánh thể ra đời… quang minh!
Nhớ lời trong Pháp Hoa kinh,
Lại thêm nảy mối tâm thành ngưỡng chiêm:
Ngời ngời tướng hảo trang nghiêm,
Nghe dư âm vọng tam thiên Phật Đà.
MẸ HIỀN VĨNH BIỆT
Nghiệp duyên có phải chăng là?
Hay là diệu lý của tòa Như Lai?
Sinh con ngày một ngày hai,
Gót hương mẹ đã sớm rời dương gian.
Hoa nao nở lại không tàn?
Nguyệt nao đầy lại… tiếng đàn không vơi?
Mẹ băm hai tuổi thọ đời,
Xa con chín tháng… tao nôi lặng lờ…
Một nghìn chín trăm hai tư (1924),
Là năm tử biệt, mẹ từ giã con!
SEN THIÊNG HÀM TIẾU
Thế rồi… ngày mỗi lớn khôn,
Bao nhiêu tháng, bấy nhiêu hồn nguyệt viên.
Tuổi nôi tròn bóng trăng lên,
Tâm linh mỗi tuổi một thêm trăng tròn
Gió lùa mây trắng qua non,
Biển xao sóng biếc quanh hòn cù lao.
Chú hài nhi của năm nao,
Giờ lên bảy tuổi, trái đào phất phơ.
Nếp nhà, dòng dõi hương thư,
Cụ ông vốn bực văn từ danh gia.
Giã từ nội cỏ đồng hoa,
Trẻ thơ cắp sách vào ra học đường.
Kiếp xưa nguyệt đã tròn gương,
Kiếp nầy nhất định tỏ tường quán chi.
Thông minh, hiếu thuận, nhu mì,
Kinh xưa, sách mới, có gì chẳng thông.
Nhớ câu: “Hòa nhi bất đồng”,
Lại câu: “gần mực” một lòng quy y.
Chọn con đường tốt mà đi,
Những quân bạc ác nguyện thì tránh xa.
Phương Đông ánh nguyệt chan hòa,
Cửu Long hàm tiếu một tòa sen thiêng!
hủy triều xuống, thủy triều lên,
Niên linh thoắt đã tròn thêm bảy kỳ.
Năm mười bốn tuổi đi thi,
Đỗ bằng Yếu lược (thuận tùy hiếu tâm…).
Tấc lòng tưởng bước thanh vân,
Muốn cho con trẻ dự phần công danh,
Cụ ông ra sức dỗ dành,
Mong con tiếp tục học hành, mai sau…
Nhưng cơ thiên định nhiệm mầu,
Pháp âm vi diệu từ đâu vọng lời…
Lắng nghe chim hót thảnh thơi,
Thiếu niên chợt thấy cung trời mở ra…
Thôi thì nghĩa Mẹ ơn Cha,
Thôi thì thế tục ta bà, từ nay…
Cúi đầu lạy, chắp hai tay,
Kính xin thân phụ tỏ bày lòng con…
Rằng: công cha núi Thái Sơn,
Rằng: nghĩa mẹ nước trong nguồn chảy ra.
Nhưng con đã nguyện Di Đà,
Kiếp nay xin được xuất gia tu hành,
Than ôi, cốt nhục thâm tình,
Cụ ông khôn để con mình sinh ly!
XUẤT GIA CẦU ĐẠO
Thôi thì thôi, thế thôi thì…
Vẹn nguyền xin chịu lỗi nghì với cha.
Thiếu niên ngày nọ lìa nhà,
Vượt biên giới Việt Miên xa dặm ngàn.
“Lên non tìm động hoa vàng…”
Tầm sư học đạo chốn Nam Vang thành.
Cửa chùa có bậc tinh anh,
Đã thông phép Thánh lại rành bùa Tiên.
ốc người Việt, tính danh Miên…
Cùng ai cũng có chút duyên sư đồ.
Kể từ vào cửa không vô,
Vỡ lòng, lấy NHẪN mà tu bước đầu.
Nắng sương công quả dãi dầu…
Đất đào, củi bửa, giếng sâu, sông dài…
Từ bi là gốc Như Lai,
Cảm thương thân phận những ai đọa đày:
Bao nhiêu của cải sư thầy,
Trò đem ban phát một tay sạch làu.
Không kia có thực không đâu,
Không này mới thực làu làu là không).
TRỞ VỀ CỐ HƯƠNG LẬP GIA THẤT
Một xe trong cõi hồng trần…
Nghĩ đây cõi tạm, nương thân ích gì.
Thôi thì hát khúc gia quy,
Quẩy minh nguyệt, nhẹ gót về cố hương.
Cha già mái tóc điểm sương,
Mẹ xưa, dưới một, chút hương linh nầy!
Thôi thì theo “cái xưa nay”,
Lập gia thất để yên mây chín từng.
Nghĩa ân vành cạnh một vừng:
Có nàng thục nữ khuê trung dịu dàng…
Cảm ơn cứu tử ngàn vàng,
Nguyện cùng xướng họa cung đàn phu thê.
Phương danh nàng là KIM HUÊ,
Quê vùng Chợ Lớn, vẹn bề công dung.
(Gẫm trong trời đất vô cùng,
Nợ duyên âu cũng nghiệp chung muôn loài;
Hay là thánh ý Như Lai,
Muốn cho ôn lại trọn bài đau thương?)
Đau thương là tính vô thường,
Vô thường là tính đoạn trường xưa nay!
Ánh xuân gọi biển là mây,
Gió thu gọi áng mây nầy làm mưa…
Mười hai vòng kết Nhân Thừa,
ánh hoa TỨ ĐẠI nở đùa sắc hương!
… Đã chen trong cõi thương trường,
Tâm linh vẫn giữ vẹn gương trong lành.
Như sen kia nở bùn tanh:
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh, vẫn là…
Trăm năm trong cõi người ta,
Đã duyên chồng vợ ắt là… âm dương.
Một con nối dõi tông đường,
KIM LIÊN phận gái (sen vàng đó chăng?)
Sinh con chưa trọn tuần trăng,
KIM HUÊ đã vội… sao băng chân trời…
Biển đông dù có bao khơi,
Cũng khôn sánh được lệ người “quả phu”
Than ôi, tam giới mịt mù,
Biết tìm đâu chỉ cánh thu tuyệt vời?
Kim Huê, Ảnh của Tình ơi!
Hoa rơi, hỏi Ảnh sao phơi được cành?
Tình, Hoa, Hoa , Ảnh, Ảnh, Tình
Chẳng qua mộng huyễn, như Mình với Ta!
Thôi thì thôi, Ý Ta bà
Thôi thì thôi, Nghĩa Ta bà đó thôi!
KIM LIÊN LÌA ĐỜI
Gió đưa cây cải về trời,
Rau răm ở lại… ngậm ngùi nuôi con.
Hai năm ruột héo gan mòn,
Kim Liên thắm thoát tuổi tròn ba năm.
Vẫn là thiên lý đây chăng,
Kim Liên báo mộng mùa trăng hoa vàng,
Phút giây cũng biệt trần gian…
Thế là thôi! Giữa nhân hoàn bao la,
Giờ đây CÒN MỘT MÌNH TA,
Với vô biên cả một tòa thương đau.
“Khi tựa gối, khi cúi đầu,
Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày…”
GỐC Ba La Mật là đây:
Chiếu cho rõ, Kiến cho ngay vô thường.
XUẤT GIA CẦU ĐẠO
(Lần thứ hai)
Vó câu in dấu đoạn trường,
Quang âm dần tỏ soi đường… Quan Âm.
Ái hà trôi nổi phù vân,
Một tay giong cánh buồm tâm vượt giòng.
(Ấy ai gan thép chí đồng,
Lửa thiêng tam muội cháy hồng tim ta!)
Siêu nhiên quyết vượt ái hà,
Một đi, lìa cửa, lìa nhà, lên non.
“Gió năm non thổi lòn hang dế…”
Tưởng công thầy Đạo đế tìm soi.
Kiết già trên đỉnh xanh khơi,
Quanh đầu hạnh, tỏa ngời ngời triêu dương:
Chân tâm, chiếu kiến tỏ tường,
Bản lai diện mục sáng gương trăng rằm.
Biển vàng sóng gợn lăn tăn,
Thuyền ngư phủ bặp bùng trăng lửa chài.
CHỨNG QUẢ BỒ ĐỀ
Hải âu tung cánh thiên nhai,
Chân tâm tung cánh vượt ngoài thiên không.
Đấng thiêng rung động bảy lần,
Biển thiêng rung động bảy tầng sóng thiêng.
Không sông, lại cũng không thuyền;
Không bờ vui, lại biển phiền cũng không.
Lấy gì thủy, lấy gì chung,
Đã không sừng thỏ, lại không lông rùa.
Không ta thì lấy chi tu,
Không tu không chứng: đạo Từ mãn khai.
Mãn khai vô thượng liên đài,
Trang nghiêm thị hiện Như Lai tọa thiền!
VIẾNG LỄ THUNG HUYÊN
Một chiều trước cổng gia tiên,
Bỗng dưng hiện một thanh niên rỡ ràng.
Nghiêm trang trong chiếc y vàng
Tay cầm bát ngọ hào quang tỏa ngời.
Rằng: “Nay tôi chứng đạo rồi,
Tam thiên cũng vọng tiếng lời Chơn như.”
Thăm Nghiêm xong, lại lễ Từ,
Thời gian hội ngộ cũng vừa đôi hôm.
Đoạn, y nguyền Chuyển luân vương,
Lại quay về núi Trà Lơn mây ngàn…
Ai lên non ẩn động vàng,
Người lên non để khai đàng núi xanh.
Thất Sơn bảy ngọn núi lành,
Non linh tiếp khí thượng thanh diệu vời.
Công xòe, phượng gáy thảnh thơi,
Quả nơi phương tiện cho người tu tâm.
Một chiều có vị khách nhân,
Mến non, yêu đạo, gót chân băng ngàn;
Gặp Người pháp tướng nghiêm trang,
Tọa thiền dưới bóng bình an Bồ Đề,
Hoát nhiên sinh dạ kính vì,
Rước người xuống núi trụ trì già lam.
Tự rày đăng tỏa minh quang,
Chốn Linh Bửu tự, pháp đàn khai hoa.
Thiệu long thánh chủng Phật đà,
GIỚI nghi, LUẬT, LUẬN, tinh ba mở nguồn…
Mừng thay, quê vẫn còn hương.
Mừng thay, hương tỏa mười phương nhân thừa.
Kế truyền y bát nghìn xưa,
Thiên gia phạn, vạn lý du – Bóng, Hình…
Đời nay truyền đạo bằng Kinh,
Phật xưa truyền đạo bằng hình bóng Như.
Tam thiên nữa, cũng là hư,
Phật âm nữa, cũng là dư âm thừa.
Còn đây, thường trụ, chơn như,
Một vừng viên nguyệt trên tờ Tâm Kinh.
Minh Đăng dõi bóng an bình,
Bình an như cõi Vô sinh nhiệm mầu!
Dù nương thân mái chùa nâu,
Vẫn vào ra chốn rừng sâu tham thiền.
Gió to, cây cả vẫn bền,
Giới nghi vẫn giữ trọn niềm thanh vân.
Qua năm bốn sáu (1946), xuất thần,
Gặp Di Đà Phật thọ tâm ấn truyền.
Từ ngày thọ ký bề trên,
Minh Đăng Quang mới thực nên danh người.
Đèn tâm soi tỏ nghìn nơi,
Mười phương Phật, chín phương trời long lanh!
… (A Di Đà Phật oai linh
Khiến tôi giải khổ vô minh kiếp này)
… (Sông yêu nghìn thước nước
Bể khổ muôn sông tà
Luân hồi muốn thoát khỏi
Mau niệm chữ Di Đà)…
THÀNH LẬP GIÁO HỘI
Một cành mà nở trăm hoa,
Bóng y bát đẹp quê ta tự rày.
Chân truyền KHẤT SĨ là đây,
Bóng xưa với lại Hình này dặm không.
Đã không, không tới tận cùng,
Nhứt Y, Nhứt Bát dạo cùng nước non.
Đã không nhà cửa vợ con,
Lại không vướng bận vuông tròn thấp cao.
“Đầy vơi, trong đục” sá nào,
Hải triều âm vọng ngọt ngào Tâm Kinh.
Bờ ao, vách miếu, mái đình,
Sen thiêng thị hiện anh linh nhụy vàng.
Hương lừng khắp cõi dân gian,
Xóm thôn dậy Phật âm tràn sóng vui.
Như hướng dương theo mặt trời,
ột NGƯỜI đi, cả vạn người theo chân.
Nền móng ĐẠO đắp xây lần…
TĂNG GIÀ KHẤT SĨ truyền chân Phật thừa.
ĐƯA ĐẠO VỀ THÀNH
Sài Gòn hoa lệ từ xưa,
Trăng phơi cánh mộng, gió đưa điệu đàn.
Một ngày kia, dưới nắng vàng,
Bỗng trang nghiêm hiện một đoàn du tăng.
Dân thành thị những băn khoăn:
Họ là ai? Xia thưa rằng: Họ đây
Là môn đệ của Đức Thầy
Minh Đăng Quang – chiếu tự rày mười phương.
Sáng ơi ngọn đuốc chân thường,
Đèn khơi nhật nguyệt, đuốc tường nhân duyên.
Pháp luân chuyển, hải triều lên…
Đưa nhân loại vượt tam thiên diệu vời.
PHÁP TỎA MƯỜI PHƯƠNG
Đạo mầu bén rễ nơi nơi…
Phú Lâm, Chợ Lớn, sen tươi một miền.
Đình Cây Gõ, tự Kỳ Viên,
Kính dâng lên đức tôn nghiêm trụ trì.
Mùa thuyết pháp, hội quy y,
Bốn phương thiện tín trẩy về dâng hương.
Sử mầu, lần giở từng chương,
Hạnh tu Khất sĩ du phương Ta bà.
Khắp vùng non biển quê ta,
Đâu đâu chẳng hiện bóng hoa Ưu Đàm.
Sen nghìn cánh tỏa hào quang,
Tăng nghìn vị tỏa thơm đàng quê linh.
Suối mầu khởi tự non xanh
Chảy lai láng Biển Thái Bình… trăm sông….
Từ miền Nam đổ về Trung,
Hương Giang vọng tiếng Cửu Long gọi mời…
Bây giờ Tịnh xá trăm ngôi,
Như trăm nhánh ngọc tươi chồi Vô Ưu!
VU LAN THẮNG HỘI
Ơn cha nghĩa mẹ trên đầu,
Biết bao ý nghĩa nhiệm mầu: Vu Lan.
Trời tháng bảy giọt mưa chan,
Tưởng như Hiếu tử hàng hàng lệ rơi.
Y theo tục lệ bao đời,
CHƯ TĂNG KHẤT SĨ nơi nơi họp về.
Kỳ Viên nào thuở xưa kia,
Mà nay biếc ngọc Bồ Đề lao xao.
Từ nơi bể thẳm rừng cao,
Lễ thiêng Tự Tứ ngọt ngào đoàn viên.
Nghĩa nầy: Hiếu Đạo Vi Tiên,
Nghĩa nầy: chung họp chú nguyền độ nhân.
Nghĩa nầy: vi diệu thậm thâm,
Mùa sen nở, thách mưa dầm gió may.
Thậm thâm vi diệu nghĩa nầy,
Vu Lan Tự Tứ là ngày… đổi y.
Tuổi đời thêm một… vân vi,
Song song, tuổi đạo thêm… kỳ diệu hương.
Đầu tiên lễ Vu Lan Bồn,
Cử hành nơi chốn đạo trường Kỳ Viên.
(Một nghìn bốn tám (1948) dương niên),
Năm sau, lễ lại dời miền Vĩnh Long.
Vu Lan, hội mở khắp cùng,
Từ miền Tây tới miền Đông, rực vàng.
Năm tư (1954) năm của đoạn tràng:
Tôn Sư vắng bóng, Minh Quang nhạt ngời.
TÔN SƯ VẮNG BÓNG
Năm Giáp Ngọ, đầu tháng hai,
Vĩnh Long hoa nở đón người vân du.
Khi qua thuyền tới Cần Thơ,
Bỗng đâu nhận được “lệnh” từ “cấp trên”:
Một xe vào cõi “U huyền”,
Ai hay địa ngục giữa miền nhân gian.
Tuồng đời hợp hợp tan tan,
Ngắm tranh vân cẩu đôi hàng lệ sa,
Đêm xuân tủi bóng trăng tà,
Đêm thu tủi ngọn đèn hoa vơi dầu.
Bây giờ Phượng ở nơi đâu?
Bóng chim tăm cá biển sâu sông dài…
Đã đành thường trụ Như Lai,
Đã đành pháp tánh ở ngoài sắc không,
Đã đành gương chiếu hoa lồng,
Đã đành đành vậy, mà lòng… vẫn đau.
Bây giờ Phượng ở nơi đâu?
Để cho mây trắng một màu mênh mang.
MINH ĐĂNG BẤT DIỆT
Hỡi ai trong cõi nhân hoàn,
Tự mình hãy thắp đuốc vàng mà đi.
Lời xưa Phật dạy còn ghi…
Tâm đăng khơi tỏ, vậy thì… Minh Đăng.
Thanh vân hiện cánh chim bằng,
Nương theo ĐẠI THẾ CHÍ, băng dặm Trời.
Đức Thầy dẫu vắng tăm hơi,
Gương vàng ánh ngọc vẫn ngời TRUNG TÂM.
Dưới trên Giáo hội một lòng,
Cùng chư thiện tín kết vòng minh châu,
Một trăm lẻ tám hạt mầu,
Kết bằng sợ Pháp tròn xâu Bồ Đề.
Thời gian gió thoảng hoa lê,
Hai mươi năm lẻ sinh ly nghẹn ngào.
“Non cao ai đắp nên cao
Sông sâu ai bới ai đào mà sâu?”
Tung hô Phật pháp nhiệm mầu,
Vai mang nhật nguyệt Như Châu, lên đàng.
Phất phơ muôn dặm y vàng,
Đương kim Giáo hội mở trang đạo thừa.
Noi gương hùng lực ngàn xưa,
Thiên nhiên cao phất ngọn cờ Siêu nhiên.
PHÁP VIỆN LÊN NGÔI
Cõi Nam kết tụ nhân hiền,
Minh Đăng Quang Pháp Viện nên công trình.
Trước nhờ Phật Tổ oai linh,
Sau nhờ có Phật Tăng mình từ bi.
Non cao, bể rộng, ô kìa:
Đàn na thí chủ sớm trưa dung bồi.
Mai này Pháp Viện lên ngôi,
Nam phương phúc địa nẩy chồi muôn bông!
Rằm tháng Giêng PL.2517
TRỤ VŨ