TÔNG - GIÁO
Khi xưa đức Phật sanh tiền,
Thì Ngài chỉ dạy đạo-lý,
Cho chúng-sanh tu;
Bấy giờ đạo Phật còn là thời pháp-lý,
Giáo-lý hay là triết-lý.
Cũng như một cội cây,
Gốc cái còn và các nhánh,
Đều sống nươngt heo mình mẹ ;
Tăng chúng tuy chia ra đông nhiều Giáo-hội,
Mà vẫn quy hợp về theo Phật,
Nên cách tu học không có sữa đổi chi cả.
Người ta gọi đó là thời chánh-pháp !
Từ ngày Phật tịch cho đến nay,
Tăng chúng chia lìa, phân chia tông-giáo,
Cũng như các nhánh cây, mất thân mình mẹ,
Bị chiết lạc đem trồng mỗi nơi,
Tùy phong thổ mà biến đổi
Không còn tánh chất giống y như hồi nguyên xưa nữa.
Đối với Phật khi xưa,
Đạo là con đường giác-ngộ,
Chớ không gọi tên là đạo chi cả.
Các giáo-pháp Ngài nói ra y theo chơn-lý
Chớ không gọi tên là giáo-pháp chi cả.
Đạo-pháp có là do nhơn -duyên,
Không lường đếm, chớ không phải một h ay hai nhứt định,
Hoặc giữ hoài một việc ;
Nhờ vậy mà tăng chúng của Phật,
Học hành rộng-rãi uyên-thâm, không còn sở-chấp.
Bấy giờ đạo Phật là đạo của tất cả,
Giáo-pháp của Phật là giáo-pháp của tất cả.
Phật không chia rẽ đạo giáo nào,
Ngài không cạnh tranh với ai hết.
Ngài không chê-bai chỉ-trích một ai,
Trong các đẳng cấp, ai muốn đi,
Xuất-gia nhập đạo theo Ngài cũng được,
Ngài chỉ giữ riêng một lớp dạy.
Ngài không thâu nạp, người tại-gia cư-sĩ, làm trong đệ-tử.
Không có giành choán tín-đồ của tông-giáo.
Cư-gia ai theo đạo nào cũng được. Kẻ cư-gia nào có lòng tin tưởng Ngài, thì Ngài hkuyên người ấy, hãytập lần noi gương về y theo Phật, Pháp, Tăng đó, mà đi tới, và nên giữ lần từ năm giới, tám giới để bước lên mười giới tập xuất-gia. Ngưòi cư-sĩ chỉ có tâm quy-y Tam-Bảo, tập xuất-gia giải-thoát theo Phật Tăng, là gọi tâm theo Phật, chớ năm giới, tám giới, còn là bậc chư Thiên cõi trời, là người thiện nhơn, y như c ác tông giáo, chưa được ở trong đạo Khất-sĩ giải-thoát của Phật Tăng; chưa được gần bên Phật!
Giới-luật của Tăng là bức tường hàng rào, đón ngăn giữa sự xuất-giavà tại-gia, không cho chung lộn. Người tại gia nhưcòn ở ngoài hành rào, chỉ có kẻ xuất-gia nhập đạo mới là được ở trong hàng rào, trong đạo, theo hầu bên Phật. Khi xưa mặtdầu là Phật dạy Tăng, coi sóc cho Tăng , Tăng đi khít bên Phật, thếmà Phật cũng không nhận một ai là đệ-tử của Ngài, vì đối với cái đạo của chư Phật, Ngài là người thaythế dạy bảo dùm thôi, Ngài không xưng thầy, Ngài không gọi học trò, Ngài dứt bỏ cái ta và của ta trói buộc, Ngài cũng chưa chắt tin một đệ-tử nào, là s ẽ t heo đúng y như Ngài, và Tăng chúng cũng không ai dám xưng gọi thầy tôi, tôi là đệ-tử Phật, vì sợ mình không giữ nổi đạo hạnh y như Phật, là hư tiếng Phật.
Mặc dù Giáo-lý thì nói rộng, để khuyến khích cư-gia hay Tăng chúng. Phật gọi chung là tứ chúng : hai bên xuất-gia nam nữ là đệ-tử Phật, hai bậc tại gia nam nữ là thiện-tín Phật, Phật khuyên gia-cư nên phải xuất-gia vàTăng chúng là thầy của cư-sĩ, vì tăng chúng như học trò ở học trong trường. Còn cư-sĩ là còn đang tập học, còn ở bên ngoài đời tội lỗi ; cư-sĩ ngày xưa theo Tăng, chớ không theo Phật nhảy cấp; cư sĩ ngó ngay mục-đích của Phật, mà theo thì phải noi gươngt heo Tăng, vì tăng là nấc thang gần trên cho cư sĩ. (Có cư gia mới giúp Tăng sư, sự ăn mặc ở bịnh, nhờ đó các sư mới dễ tu học). Tăng chúng còn, là đạo Phật còn, mà Tăng chúng còn là do cư-sĩ, vậy nên cư-sĩ cũng có công lớn với đạo Phật, về bên duy-vật, tài thí hộ đạo. Nhờ công-đức đó mà để được xất-gia về sa, nghĩa là sau này tu tới mãi, cũng sẽ được thành Phật, sau theo Tăng chúng.
Phật xưa gọi tứ chúng là kẻ vòng trong , vòng ngoài, trong mỗi khi thuyết-pháp, nên gọi tứ chúng là kẻ Thinh-văn, thính-pháp văn kinh. Nhưng trái lại, Tăng chúng không ai dám t ự cao, mà xưng mình là đệ tử Phật, vì d 9ức Phật là đấng hoàn toàn cao-viễn qúa, còn tăng chúng, thì ít kẻ diệt được phàm tâm ; hơn nữa cư gia c ũng lại khiêm-nhượng, không dám gọi mình là đệ tử của các sư , vì các sư phần n hiều chứng qủa thánh, còn cư-gia thì đang bị lấm lem dơ nặng ; chỉ có sa-di tấp xuất-gia, theo khít bên Tăng, mới tạm gọi là đệ tử của Tăng thôi, chớ cư-gia thì chỉ nhận mình là thiện-tín chung, chưa d ám chịu làm đệ-tử riêng một vị sư, vì bởi cư-gia chưa thật hành giống y theo Tăng sư được.
Như thế là tránh cho Tăng sư khỏi mang tiếng “ Giáo bất nghiêm sư chi đạo” . Cư-gia cũng có thể là tín đồ của các tông-giáo, ngoài đạo Phật nữa, vì cư-gia là người còn đang ở trong cảnh thế, còn mắc phải xác thân của-cải trong g ia-đình xã-hội.
Như vậy là sự xã-giao phải rộng rãi, mới tránh được tai nạn cho thân. Đạo giáo nào, sự phước thiện nào, việc lành phải nào, cũng nên tán -trợ, nâng cao, giúp tiếp, để ủng hộ tinh-thần dân-tộc, va2 c ũng thêm sự lợi-ích cho mình nữa. Như thế nghĩa là cư-gia chưa có thầy, như sa-di, và chưa có ông thầy nào, bảo lãnh cư-gia cả, cư-gia là tín đồ của lẽ phải, chớ không phải của riêng phật. Phật không có choán tín -đồ, của các tông-giáo khác đạo.
Ngài sống chung tất cả , tất cả sống chung với Ngài, Ngài và tất cả đều ở chung một trường, Ngài là một ông thầy giáo, dạy lớp trên của tất cả , chớ không phải đạo riêng; Ngài không cạnh tranh, vì bài vở, lớp học, sự dạy của Ngài, khác xa lớp dưới, cũng rất ít ai theo được.
Nhờ vậy mà ai cũng mến Phật, Phật đi đến đâu cũng được, và kẻ trí-thức của các đạo giáo, ai cũng muốn xuất-gia theo Ngài mà tôn Ngài là thầy chung của tất cả.
Bởi ngài là người đã giác- ngộ chơn-lý , không còn ngăn chấp nhỏ hẹp, chẳng giống như đời sau nầy, vậy nên mới gọi thuở ấy là thời chánh-pháp.
Thuở ấy cũng có cư-gia hết lòng theo đạo Phật, tuy chưa được vào trong đạo theo các sư, vì bởi nhơn-duyên phước đức thiện căn kém thiếu, chớ họ cũng tu hành tinh-tấn lắm; không được xuuất-gia đắc qủa A-La-Hán hiện tại, thì họ hành đạo Bồ-Tát, tập giũ-giới Bồ-Tát, để được đắc qủa A-La-Hán lúc lâm chung cũng n hư cái vỏ ruột của trái, tuy thua kém bây giờ, chớ cái hột thì sau này c ũng thành-tựu được, theo sau ai nấy; vì người cho rằng : hôm nay người còn nghiệp tội nhiều, chưa giải-thoát xuất-gia bằng thân đặng, thì họ tập lần cái tâm, nuôi sẳn hột giống Khất-sĩ trong tâm. Hễ ngày nào rảnh rang, thân không còn bận nữa, thì là tâm họ cũng được xuất-gia theo sau các sư, hay nhờ tâm trí đó, mà đời sau được xuất-gia giải-thoát. Đúng theo lẽ, nhiều kiếp ác mới tới thiện, nhiều kiếp thiện mới làm cư-sĩ, nhiều kiếp cư-sĩ mới đến xuất gia, nhiều kiếp xuất-gia mới thành phật. Như thế là chúng-sanh tuừ cái vô-minh ác quấy tội lỗi, tiến lần lên, nhà sư nào đi trước mà tuu hành rãi-đãi, là kẻ đi sau phải theo kịp được.
Vậy nên cư-gia rất kỉnh trọng các sư trì giới, nhập-định, đắc-trí-huệ, hơn các sư còn tội lỗi, vì các sư tu chín-chắn, là lúc nào cũng đi trước hơn họ , họ phải noi theo và theo không kịp; chớ với các sư tầm thường, thì cũng chẳng hơn họ bao nhiêu, vì bởi họ thấy các s ư còn tội-lỗi y như họ, cư-gia có mắt sáng, là nhờ gần gũi Tăng, và cũng biết Luật Tăng; cũng có cư-gia học xem kinh sách, chẳng tha gì tăng cho lắm.
Tăng có hơn họ là bằng giới định huệ, họ mới kỉnh trọng, chớ sự thông minh văn học, họ có kém Tăng đâu, bởi thế cho nên đối với tăng tội-lỗi, thì họ gọi là không phải Tăng, họ chỉ kiêng nể cái áo bề ngoài thôi, chớ thật ra họ không kỉnh trọng.
Lỗi ấy tại Tăng bỏ đạo, chớ không phải tại họ, Tăng cải sửa không theo Phật, thì trách sao cư-gia lại chẳng cải sữa, mà bỏ Tăng. Ở xứ này : Tăng không còn nhóm họp ngày Rằm, ba mươi đọc giới-bổn nữa, Tăng mạnh ai nấy tu, nên hư t ự ý, không cần thuộc luật, không có Giáo-hội.
Tăng đã rời rạc, chòm nhóm đua tranh, không hợp tác thì tránh s ao cư-gia lại không lập ra tông-giáo, đảng-phái tư riêng. Vì họ như rắn không đầu, bởi Tăng chúng không cầm đầu họ đặng ; cũng vỉ thế mới có kẻ cư-gia lầm lạc bởi không ưa một hai vị sư sái quấy, mà họ khinh luôn cả Phật ,pháp, Tăng, khinh luôn cả sự xuất-gia của họ, họ không bước đến sự xuất-gia, họ lại còn ố ngạo kẻ xuất-gia là khác nữa.
Cũng có kẻ cư-sĩ lại chấp mình, tự cho mình cư-sĩ mãi là đúng rồi, họ lập đạo giáo riêng, lập ra chòm nhóm quay đầu ố nghịch lại đạo Phật, để phải vướng cảnh thiên-ma đọa lạc, không đường giải-thoát giác-ngộ, thật là tội nghiệp cho họ; mà lỗi của họ là tại nơi Tăng sư sái quấy vậy.
Cũng vì thế mà có kẻ dám nói : cả Tăng sư là bị qủa báo, bị đền tội, đang tu, chịu khổ nhọc, còn c ư-gia là đã tu rồi, thành phật rồi, bây giờ là đang hưởng phước, không cần tu xuất-gia nữa; họ nói kẻ xuất-gia là vì hoàn cảnh trốn tránh, thất bại, chớ không có ai xuất- gia vì giác ngộ, vì lòng từ-bi thương xót chúng-sanh đâu; thế là cư-gia hủy-báng Tăng-bảo, và kẻ cư-gia với người xuất-gia ấy, là hai người đồng lõa, giết phá đạo Phật.
1.- SỰ HIỂU LẦM
Có kẻ lại hiểu lầm, là cư-sĩ, Bồ-Tát lớn hơn A-La-Hán, họ không hiểu lý nghĩa A-La-Hán, là Ứng Cúng, danh từ Ứng Cúng có, là do nơi hai chữ Khất-si, mà Khất-si là chơn-lý của võ-trụ chúng-sanh, Ứng Cúng là xứng đáng cho người cúng dường lễ-bái. Nếu không phải là Khất-sĩ, thì đâu có chữ Ứng Cúng A-La-Hán. Đó là một danh từ mà Phật khi xưa là một vị đại A-La-Hán, sau khi tu hạnh Bồ-Tát đã nhiều đời, mới thành được A-La_Hán đó. Phật cũng gọi là như lai, nên cũng gọi là có tu hạnh Bồ-Tát, mới đắc qủa Như-Lai, vậy thì Như-Lai tức là A-La-Hán.
Đều là thầy của Bồ Tát ? Bồ Tát có hai hạng ? A-La-Hán cũng có hai hạng ? Bồ-Tát phàm và Bồ-Tát thánh; A-La-Hán thánh và A-La-Hán phật. A-La-Hán Phật là trên Bồ-Tát thánh. A-La-Hán thánh là trên Bồ-Tát phàm.
1. Như-Lai-Đại-Thánh (đắc hủ thần-thông) A-LA-HÁN PHẬT.
2. Bồ-Tát (đủ lục-thông) BỒ -TÁT THÁNH.
3. Bích-Chi (đủ lục-thông) BÍCH-CHI THÁNH
4. A-La-Hán (đủ lục-thông) A-LA-HÁN THÁNH.
5. Bất-Lai (chưa đủ lục-thông) BẤT-LAI PHÀM.
6. Nhứtt-Vãng Lai (chưa đủ lục-thông) NHỨT VÃNG LAI PHÀM.
7. Nhập-Lưu (chưa đủ lục-thông) NHẬP- LƯU PHÀM
Người xuuất-gia có thể đắc đuủ 7 qủa thành Phật.
Người tại-gia có thể đắc 4 qủa thành Thánh.
Bậc Bồ-Tát phàm là còn ở trong 3 qủa : nhập-lưu, nhứt-vãng-lai, bất lai, chưa đủ lục-thông , kêu gọi là tập tu hạnh Bồ-Tát, tập làm việc pháp thí, chớ chưa phải Bồ-Tát thiệt-thọ; nghĩa là chữ Bồ-Tát là giác tha rất rộng, mỗi một việc làm phải nào, cũng gọi là pháp giác-tha Bồ-Tát được hết. Cư-sĩ thiện nhơn chư thiên, mà biết làm việc pháp thí, tu-tập phước huệ để cho mau dứt nghiệp, đặng đi xuất-gia, cũng gọi là tuhạnh Bồ-Tát vậy. Tất cả chúng-sanh, cũng đều gọi là Như-Lai tử , hay Bồ-Tát tử được hết, tịnh là Như-Lai, động là Bồ-Tát. Cư-sĩ là Bồ-Tát tập tu, theo phép lục độ vạn hạnh, chớ chưa đắc lục độ vạn hạnh. Đắc lục-độ vạn hạnh, là chỉ có Khất-sĩ Bồ-Tát mới đợc. Vì người xuất-gia Khất-sĩ, là đã Bố-Thí hết rồi tài thí, thân thí, một lần rồi đi tu, và đang hành pháp thí; NHẪN-NHỤC đi xinăn mỗi buổi sáng, và mặc đồ hoại sắc, y bát một bộ; TINH-TẤN là đi hoài không ở một chỗ; TRÌ-GIỚI là giữ 250 giới xuất-gia trọn đủ; THIỀN-ĐỊNH là nhập đại định dưới gốc cây; TRÍ -HUỆ là cắt đứt phiền-não, bằng sự thuyết-pháp tham-thiền luận đạo. Người Khất-sĩ có thểđắc qủa thánh hiện- tại, là nhờ sự xuất-gia giải-thoát, lục căn thanh-tịnh, đủ phép lục-thông, thành A-La-Hán, rồi kế đó đi tu thiền-định thêm thành BÍCH-CHI, và sau trở lại giáo -hóa chúng-sanh làm BỒ-TÁT-THÁNH, có nhiều kiếp Bồ-Tát-Thánh, mới sẽ đắc qủa NHƯ-LAI, hay ĐẠI A-LA-HÁN, PHẬT : nơi đây BỒ-TÁT-THÁNH ấy mới cao hơn bậc A-La-Hán thánh vậy. Người cư-sĩ rán lắm thì sau khi chết, mới đắc lục-thông thành A-La-Hán, chớ hiện tại còn đang sống, thì cũng khó mà đắc ba qủa : Nhập-lưu, nhứt vãng-lai, và bát-lai được; cũng như các sư khó mà đắc qủa A-La-Hán, Bích-Chi, Bồ-tát lắm. Và c7 sĩ thì chưa rồi độ bố-thí, nhẫn- nhục, tinh-tấn, rán lắm là đắc ba qủa phàm này; chớ trì giữ 250 giới cụ-túc, để thu-thúc lục-căn thanh-tịnh là chưa, chưa nhập đại định được, và cũng chưa phải là bậc trí-huệ, diệt hết phiền-não, như bậc Bồ-Tát pháp sư, tham-thiền luận đạo, thuyết-pháp đặng. Cư-sĩ thì chẳng đắc đặng thần-thông.
Như vậy thì tiếng cư-sĩ Bồ-Tát là pháp-lý nói rộng ra, để khuyến-khích cư-gia tập-tu, để làm thiện nhơn, khó mà diệt trừ gốc tội. Vì bởi còn đang ở trần lem lấm. Bồ-Tát đa hạnh, là bậc Bồ-Tát Thánh có đủ lục-thông, có nhiều hạnh kiểm nết hạnh của bậc thầy, chớ không phải nhiều hạnh, là bỏ giới-luật mà làm cư-sĩ trở lại, hay đi làm sái quấy. Bậc Khất-sĩ pháp sư Bồ-Tát thay, cư-gia sao lại tưỏng mình là Bồ-Tát, bậc thầy, không lẽ để dạy cho người khác nhiễm-ô bùn bụi đời đời mê- đắm, tuưỏng rằng : Phật xưa là cư-sĩ. Như thế tức là đọa- lạc rồi, vì giết hại sự tấn-hóa xuất-gia giải-thoát cuủa mình và ai nấy. Không lẽ cư-sĩ lại tưởng rằng : mình đã hơn bậc ThánhTăng xưa, có đuủ lục-căn thanh-tịnh, giải-thoát, và có lục-thông rồi ư; đành rằng tiếng xuất gia, là thân-tâm xuất-gia, chớ thân xuất-gia là chưa đủ. Nhưng đối với chúng-sanh, nghiệp tội lâu đời, tâm trí yếu đuối, nếu thân chẳng xuất-gia, tâm nào chắc được xuất-gia, hòng đắc thần-thông trí-huệ, qủa A-La-Hán nơi cư-sĩ. Kìa Tăng chúng từ xưa, hay như Phật, lấy cảnh tạo tâm trước, rồi tâm mới tạo cảnh sau. Các Ngài cần phải xuất-gia bằng thân trước, để tạo tâm xuất-gia, thành A-La-Hán trước, thế mà các Ngài còn ít ai đắc được, và qủa Bồ-Tát Thánh, đối với các Ngài còn xa qúa, đâu phải sự nói suông nghe dễ, như là không cần xuất-gia, cũng đắc qủa Bồ-Tát cao hơn A-La-Hán, và Phật là tại gia cư-sĩ, đang ở trong bùn lầy, không cần ra khỏi, không cần diệt trừ ác tội. Tuy lý Phật nói rộng ra : Ai ai cũng có thể tu để thành Phật, nhưng mà nào ai đã tu, và ai là người dám gọi mình là phật rồi đâu, mà không tu, không giải-thoát; không lẽ vì chê bay một hai vị sư Tăng sai quấy, mà chê bỏ luôn giáo -pháp Phật, để hiểu bằng cách sái kháclạc lầm. Tấm lòng như thế, thì đâu còn phải là Bồ-Tát, mà sao lại chẳng tự mình xuất-gia Khất-sĩ, làm Tăng sư cho đúng -đắn, để cứu chữa đạo phật lại, vừa là để giúp ích cho chúng-sanh, lại được tấn-hóa cho mình nữa. Hay là tại sao chẳng đi tìm kiếm chơn Tăng, để gom hiệp lại, khuyếch-trương Tăng-bảo, thống-nhứt tăng-già, chưã sữa giới-luật Phật lại, chớ để chia lập chòm nhómcư-gia, ố Tăng phá đạo, ích chi như thế ? không lẽ ai rồi cũng tranh nhau để lo phá đạo ?
Vậy nên cư-Gia phải thấy mình, cần xuất-gia giải-thoát, để làm du-Tăng Khất-sĩ. Vì Bồ-Tát Thánh thì dạy Tăng, và không luân hồi; còn Bồ-Tát phàm là dạy cư-sĩ thiện nhơn, còn phải luân-hồi. Như thế chánh-nghĩa cư-gia là thiện-nhơn, trí-thức, chư Thiên, tập hạnh Bồ-Tát, để tích trữ phước đức, đặng xuất-gia, chớ chưa là Bồ-Tát thiệt thọ. Vì lời nói của cư-sĩ, không thể bảo dạy kẻ khác xuất-gia cho đặng, là bởi mình chưa xuất-gia, cũng như mình còn đang tội-lỗi, mà bảo kẻ khác dứt chừa tội-lỗi, là không được.
Cư-sĩ muốn cho lời nói của mình có hiệu qủa, ai cũng tu nghe theo mình, quốc-độ mình được rộng dài to lớn, thì phải bước tới xuất gia Khất-sĩ cho trong sạch đã, cho đúng câu qui-y Tam-Bảo, và lời nói cho đúng với sự thật hành , mới chắn chắn sẽ thành Phật đặng. Như vậy là phải bõ sở-chấp nhỏ hẹp, tư riêng, gia-đình, xã-gội, mà phải phát tâm chánh-đẳng chánh-giác, sống chung cả thế-giới, học dạy cho chung cả chúng-sanh, mới nên lớn sự đặng; Phải vậy chớ chi cư-sĩ cứ thật lo tu, mà đừng nói Bồ-Tát A-La-Hán gì hết, là tốt qúa.
2.- TĂNG SƯ CHIA RẼ
Trong số Tăng đồ khi xưa của Phật, có ba hạng trí, kẻ đang học, người đang tu, kẻ đang dạy, gọi là bậc Thinh-Văn, Duyên-giác và Bồ-Tát. Ba chặng này, khác nhau bằng tâm-trí, chớ giới-luật y bát cũng như nhau, đều gọi chung là Tăng, Khất-sĩ, Tỳ-kheo; hay gọi là Tỳ-kheo có ba hạng giáo-lý, ba cỡ pháp.
Cũng như loài ngưòi có ba hạng trí, mà cũng là một loài người chung, chớ không phải chia rẽ phân-biệt. Nghiã là Tăng chúng tu học giới, định, huệ, kẻ cao người thấp, chớ không phải là khác đạo, khác giáo-pháp; thế mà từ khi Phật tịch đến nay, người ta lại phân chia ra làm Đại-thừa Tiểu-thừa, đối-nghịch, chỉ-trích lẫn nhau. Một đàng các sư gọi mình ăn chay là Đại-thừa, mà không có y bát trì-giới, các sư tự mình cải-cách theo nho đạo Khổng-Tử . Một đàng khác các sư trì-giới y bát, nhưng lại ăn dùng cá thịt gọi là Tiểu-thừa.
Sư Tiểu-thừa thì chuyên học pháp vi-tế tự độ nhiều hơn. Sư Đại-thừa thì học pháp độ-tha bao-quát bên ngoài. Cũng như cái nhỏ của hột, và cái lớn của vỏ, mà chẳng có thịt cơm, nên không thành trái đặng.
Các sư lại không cho Tăng chúng xem học bài vỡ lẫn nhau ; Tiểu-thừa hay Đại-thừa ngày nay, không phải là trình độ cỡ trí của mỗi nhà sư, mà là sự cạnh tranh của về ngoài tôn giáo, một Sa di, một em bé, một cư-gia cũng gọi là Đại-thừa, hay Tiểu-thừa nữa.
Người tu đời nay ít ai chịu hiểu rằng : Không có tam thừa gì bề ngoài cả, tam thừa là tâm-trí của mỗi người, từ nhỏ tới lớn, từ hẹp tới rộng, chớ không phải mới sanh ra cũng Đại thừa, hay tu thành Phật, già lão rồi, mà cũng còn gọi là Tiểu-thừa mãi. Có người lại nói rằng : có y bát Khất-thực là Tiểu-thừa. Vậy ra đức Phật khi xưa trọn đờiy bát Khất-thực, đức Phật ấy cũng là Tiểu-thừa sao?
Phải chi các sư đời nay chỉ cứ lo tu là tốt hơn, dứt lòng tư-kỷ ngã-ái, dung-hòa hiệp một lại, thành ra mỗi sư đều ăn chay, và có đủ y bát giới-luật, thì chắc là chánh-pháp của Phật hưng thạnh trở lại; cũng nhuư cái chén bể gắn dính liền, cũng như cái vỏ lớn, caí hột nhỏ, dính hiệp nhau, thì làm sao chẳng có được thịt cơm nơi khoảng giữa, mà thành nên trái giác thơm ngon như vậy. Chớ chi các sư mà hợp-tác, chắc tu mau đắc qủa lắm, và chúng-sanh sẽ hưởng được biết bao mùi vị của chánh-pháp đạo-Phật, còn nếu các sư mà cia rẽ, thì có khác nào xé hai thân hình Phật, giết đạo Phật khó mà ai tu thành đạo được, và không ai được toàn-giác bởi mắc phải động tâm vì nhau mãi mãi, dễ gì tu; còn tín-đồ cư-gia thì điên-đảo, rớt rơi chán nản, tách lạc tư riêng cả. Đã vậy mà nơi xứ Ấn Độ, ngày nay các sư lại tranh-đấu với nhau, thì trách gì cư-gia không lập riêng môn phái, và thế-giới trách sao chẳng đại-loạn.
Chớ chi mà các sư hiểu rằng : phải học, học hết thảy các pháp, phải tu, tu hết thảy các pháp. Ai cũng phải cho được toàn học, toàn-giác, toàn-năng, chớ đừng giữ riêng cái sơ-giác, độc-giác, hay đại-giác thiếu kém; chỉ có giới, định, huệ là phải tu học, chớ không có thừa gì cả. Dầu trình độ mình đã đến Đại-thừa, là để cho người ta tự nhận biết,chớ đừng nói ra, mà phải nên khiêm-nhượng. Còn trình-độ mình có Tiểu thuừa là để cho người kia tự hiểu, chớ đừng dòm ngó nhau, là tốt lắm ; vả chăng sự tự cao là dốt, hạ mình là hay, vậy người thật tu học, cũng nên gọi mình là vô-thừa, nghĩa là không có thừa gì của tự mình nói ra mới phải, và chỉ có một sự tu là quý hơn cái học, quý hơn cái nói cãi cao-kỳ vậy.
Như thế thì cần gì môn phái đồng nhiều, không thể dạy, cho hư đạo pháp. Phật xưa đâu có nạp thâu nhiều người không giới-hạnh. Phật xưa đâu có dụng số đông người, người tu dầu ít, ít mà chơn- chánh đắc quả, tiếng tăm thơm phức vang lừng, nào phải đợi số đông, cái đông không kỷ-luật. Khi xuưa còn Phật hiện tại,bậc A-La-Hán rất đông, mà đệ tử rất ít, ngày nay Phật Thánh ít, mà Tăng chúng lại thâu nhiều, thì có khác nào gạo, lúa, tấm, cám, đều ở chung cả trên một cái sàng, làm cho sàng phải nứt gãy ; chớ chi mà các sư lại tự sàng đi cho rơi bớt ; giới-luật là sàng, sàng giới-luật nứt gãy, là tại Tăng ch1ng đông nhiều qúa nặng ; ca1c sư có biết đâu rằng : viên ngọc quý là rất ít, chớ cát đất thì lại nhiều. Đạo Phật mất là tại Tăng chúng đông, và tín-đồ nhiề, ai cũng tưởng lầm mình, là con trưởng nam của Phật. Thật là nguy hại thay cho đạo Phật. Thế mà đến nay, các sư lại còn gọi là giữ mãi gốc Tổ Thầy, mà Tổ Thầy xưa đâu có chia rẽ. Đâu có chẳng tu theo phép nào thuận hạp, cho tất cả ta và người, cho hạp với đạo của ta và người, mà nên cho tất cả ; và các sư là phải đoạn nhứt thiết ác, tu nhứt thiết thiện, độ nhứt thiết chúng-sanh mới phải là người tu Phật đạo.
3.- TÍN-ĐỒ THẤT LẠC
Thuở xưa hồi Phật sanh tiền, Phật và Tăng chỉ thuyết-pháp, đem chơn-lý dạy cho người tu tấn hóa, chớ không có thờ phượng chi cả ; các người đi đi mãi không ở trụmột chỗ ; tịnh-xá người ta cất ra, để thỉnh Phật Tăng đến nghỉ chơn, và dạy đạo ; tịnh-xá làm bằng cây lá sơ-sài, gồm cả một khu vườn rộng, cốc am, nhà giảng ; nhà giảng là nhà mát trống rộng để che mưa nắng, trong khi giảng đạo tạm thời, khi nào các Ngài đi, thì bỏ hết, vì Tăng chúng luôn luôn theo Phật (chỉ trừ ra các bậc Bồ-Tát và Bích-Chi, Duyên-giác, là đi hành đạo riêng đưọc). Chính giữa nhà giảng là pháp tọa tháp của Phật, ngoài ra không có chi cả, tứ chúng Thinh-Văn thảy đều ngồi trên mặt đất mà nghe pháp. Đạo pháp khi xưa là dạy tu, ai nấy lo giải-thoát tu tâm, chớ không có bận-rộn sự ngoài, vì vậy mà có rất nhiều người đắc lục-thông, trí-huệ, thành A-La-Hán, và không có học nơi văn-tự nghề-nghiệp, thờ cúng lễ-bái chi cả. Cá sư chỉ lễ Phật trong khi nghe pháp, và trong khi học hỏi thôi ; còn ngoài giờ khác thì lo học giới, tham-thiền, nhập-định ; tuy chẳng phút nghỉ không thong-thả trong tâm, mà bên ngoài thì thật như là rảnh rang vô sự.
Những lúc về sau này không có Phật, người ta bèn ghi chép lời nói của Phật, phân làm Kinh, Luật, Lận để học, và sau truyền ra nhiều xứ, nhiều thứ chữ, tiếng đọc khác nha, và ý nghĩa không còn xác thật ! Vì vậy mà lắm kẻ tu-gia chỉ đọc tụng hken tán, tin-tuưởng lời nói của Phật là linh-thiêng, chớ không cần hiểuc hi lkà nghĩa-lý, ý dạy chi cả ; vả lại Tăng chúng cũng lu mờ, thì cư-gia biết hỏi nơi ai nghĩa chữ, nào ai dạy pháp-lý, nào có ai chỉ rõ ý nghĩa của Phật dạy, tráchgì chơn-lý chẳng khó ai đạt được ! Cho nên dầu ai có muốn vượt qua ngoài lề tông-giáo, của tín-ngưỡng, thì phải rất khó khăn, sưu-tầm khảo-cứu, bươi vẹt ra từnggai chông gút mắc, mà còn phải tránh xa tông-giáo, để khỏi phải vướng nạn xích -xiềng bắt buộc. Thời kỳ tông-giáo xa Phật, người ta ít lo tu trí đức, ai cũng muốn cho đạo đông, tín đồ nhiều, kinh sách nhiều, mở rộng lớp dưới, dắt-dùi kẻ ác lên thiện, mà quên lãng suư xuất-gia, giải-thoát, thế nên các sư cũng đem mình chung lộn với cư-sĩ,và cư-gia thì lôi kéo trở lại các sư, cư-gia muốn cho ai cũng là cư-sĩ hết, bỏ đạo Phật, để lập ra đạo cư-sĩ, thiên-đường, cho thạnh hành sáng tỏ, mạnh-mẽ thế-lực. Cũng có số ít cư-gia lại q1a kiêu xa, chưa hiểu ra mục đích, cho rằng : giáo-pháp cư-gia là vững bền đúng-đắn, cư-gia khỏi xuất-gia như thế là cư-gia ấy thất-lạc ; sa-đọa mất tấn-hóa, vì việc làm ấy tuy ít-lợi cho kẻ tội-lỗi thế-gian, mà vướng phải trọng tội hủy Tăng báng đạo. Bởi không phải cả thảy Tăng sưđều là càn lếu.Cư-gia dầu thông học đến đâu, mà còn ở trong trần-tục, dễ gì tu hành đắc trí-hệ thần-thông được, mặc dầu các sư tuy ít học, mà cái học chín-chắn bằng sự tham-thiền, học đến đâu tu hành cho kịp đến đó, chẳng là có kết-qủa hơn cái học mênh mông, vả lại học tuy được mà chưahành được ; thì chắc gì ai dám tin trọn lời nói đó ; tài học không bằng tu đức, đuức trên tài dưới, tài đức phải nương nhau mới đặng. Ca1c Phật Thánh xưa xuất-gia là để tu, từ nơi chỗ thật hành t đức, mà sanh trí-huệ toàn-học, nhờ học chậm-rãi khó-khăn kinh nghiệm, mà pháp bảo đối với các Ngài, hưởng được mùi vị, hay qúi thơm ngon lắm. Ngày xưa ít học mà nên nhiều, ngày nay học nhiều mà nên ít, là cũng bởi trọng học tài, và tưởng lầm là cuư-gia đã trọn-lành trong sạch.
Đạo Phật ngày nay không còn cao quý, là bởi tăng già suy kém vật chất thạnh hành. Đạo Phật rồi đây sẽ gia nhập bằng thẳng về theo thế sự vào các ngoại giáo khác ; Phật thích-Ca sẽ không còn hình bóng tiếng tăm nữa.
Xem ngó lại, giữa chánh-điện của ngôi chùa ngày nay ngôi chùa nguy-nga lộng-lẫy, mà chẳng có một pháp-lý ích lợi dạy đời vì tín-đồ, vì tông-giáo, vì số đông thấp dưới, các sư làm nguười thủ tự chó tín đồ, đâuu có rảnh rang dạy đạo nói pháp ; vì muốn cho đông người lui tới, nên phải bày ra sự thờ-phượng, tượng cốt đủ đầy ; Tiên Phật hội-đồng một chỗ qủy thần hộ trợ, đủ thứ; vì tín-đồ bày ra sự tín-ngưỡng, chớ ít kẻ lo tu học tìm đạo.
Thuở xưa Phật ngồi trên pháp tọa ; giữa nhà mát, dạy đạo tứ chúng, thật là đơn giãn qúa,sau đó khi không còn Phật, các sư chỉ treo tượng Phật trên cao, phía dưới các sư thay Phật, đọc lại cho ai nấy nghe những lời của Phật hoặc có sư thuyết-pháp đặng, thì tự nói ra thay Phật, khỏi cần đọc tụng, như vậy là cũng còn khá. Đến nay ng7ời ta lại cất ra nhà thờ, thờ đủ thứ, đóng cửa lạnh tanh, không còn ánh sáng, đạo lý chi cả. Kẻ tu học không ai bước tới, chỗ ấy chỉ dành riêng cho đám người cầu vái, họ tới nơi để cầu vái, chớ không phải là đạo tràng như xưa kia nữa, và kể từ nay, chưa biết tới chừng nào, chúng ta mới sẽ gặp nhau trong một nhà mát sơ-sài, cây lá trống-trãi, không còn sự thờ -phượng ấy, mà lại có một vị Bồ-Tát pháp-sư dạy đạo như xưa ; hay nơi dưới cột cây, một vị Duyên-giác gảng-giải đạo lý, cho những bậc khá cao, đã vượt qua khỏi sự mê-tín tà-kiến.
Đời nay vật-chất qúa thạnh, con người ngộp lún qúa sâu, khó mà lên đặng, nên sự tu thì ích , để một người kia đến khi chết, thì cả thảy lo sợ giùm, xúm nhau lại cầu siêu. Đưa đi về tịnh thổ bằng kinh-kệ, hoặc bằng cách làm chay cúng thí ; mà ít ai hiểu ra lý nghĩa chữ siêu-độ : siêu là vượt qua, độ tức là bến bờ bên kia, nghĩa là ly tục xuất-gia hay bước lên bờ giác (miếng đất Phật ấy, là nền Tăng- bảo giới-luật). Lại lắm kẻ không ai xuất-gia, khi sống lúc chết đều ghét Khất-sĩ, khinh Tăng mà phải biể siêu-độ làm tăng Khất-sĩ được đâu; thử ngay những kẻ sống nào, không muốn giải-thoát bỏ trần, mà bảo kẻ kia nghe theo, đi xuất-gia, làm sao cho được.
Đành rằng chữ siêu là vượt qa, ví như siêu địa-ngục là ngạ-qủy, siêu ngạ-qủy là súc-sanh, siêu súc-sanh là A-tu-la, siêu A-tu-la là nhơn loại, siêu nhơn loại là chư Thiên, siêu chư thiên là Phật. Sự vượt qua c4ng như là tấn-hóa, hay giải-thoát từ cấp, cũng giống như siêu tham-lam là bố thí, siêu giận là nhẫn-nhục, siêu si-mê là tinh-tấn, siê ác là thiệnv.v… Vạn ức pháp, pháp nào mà lại không siêu, vượt qua khỏi pháp kia kém thấp, cũng như vượt qua khỏi vật chất đến tinh-thần, siêu khỏi tham-lam là bố-thí, lên khỏi đời là đạo ! Như Phật khi xưa nói pháp dạy người tấn-hóa là siêu, khi được xuất-gia vào đất Tăng-bảo là độ. Người con đối với cha mẹ tội-lỗi, phép phải lạy cầu xin cha mẹ tu hiền, là cầu siêu cha mẹ ; đánh con ngỗ nghịch răng dạy nó, cũng làm cho bảo phải siêu ; khuyên lơn bạn hữu tu- hành cũng là để cho siêu, anh đi ăn trộm, em đi phá đám cũng là phép cầu siêu, anh làm quấy mắc tội tù, em đi tố-cáo thêm tội, để ở lâu ngày thêm trong ngục khám, đặng chừa bỏ hết tội-lỗi, còn em thì ở ngoài lo nuôi dưỡng, như vậy cũng là cách cầu siêu. Bao nhiêu những cách cầu siêu ; Bằng phạt, thưởng, hay khuyên dạy, là để cho giác-ngộ giải-thoát, vậy nên phải giải-thoát mới là siêu lạc độ. Còn sự tấn-hóa từng pháp kêu là siêu tạm.
Cũng vì thé mà khi xưa, con khyên cha mẹ đi t không được nên phải rước Phật, Bồ-Tát Pháp-sư đến nhà, trước đãi cơm, và cầu xin dạy đạo cho cha mẹ, siêu độ giải-thoát xuất-gia. Đời sa ít có pháp-sư, nên cư-gia thỉnh các sư đọc lại lời nói của Phật ; và nếu không có Tăng nữa, thì sẵn có kinh sách, cư-gia số đông xúm lại đọc tụng, và giảng-giải nghĩa-lý, khuyên tu học hỏi với nhau, cũng là phép siêu độ. Thế mà đời nay, có kẻ hiểu lầm, lo-lót Ngọc Hoàng, hối lộ Diêm-Vương, bày lắm sự giả-dối, như vua, qan, già sang hiện tại ; thật vậy, cư-gia ít ai hiể rằng : chỉ có pháp-thí là pháp cầ siêu độ.
Phật xưa kia thyết-pháp giảng đạo dạy tu, là siêu độ cả chúng-sanh, và muốn cho người siêu độ, là tự mình phải siêu độ trước. Nghĩa là muốn cho ai nấy tu giải-thoát đến bờ kia, là tự mình phải xuất-gia tu giải-thoát trước đã, để cho họ coi đó coi theo, và mình dẫn đầu cho họ. Khi xưa đức Phật nếu chẳng xuất-gia, thì đâu có bảo ai xuất-gia đặng, vậy thì pháp cầu siêu, là phải tự mình đi tu giải-thoát trước, cho kẻ kia đi theo mới được. Nhứ thế thì những ai có muốn siêu độ chúng-sanh, là phải xất-gia giải-thoát làm Tăng Khất-sĩ ; vì chúng -sanh mà ta đi tu hành đạo ; cắt đứt tham ái của ta, thì tham ái của người mới mong được diệt.
TÓM LẠI
Đạo Phật ngày nay đã không còn giống y như xưa nữa ; ai cuũng gọi là đệ-tử Phật, niệm tên Phật mà không giữ giới-luật. Tông-giáo càng rộng, sự tín-ngưỡng càng nhiều, thì giới-lật càng mất, triết lý càng lu; Tăng đồ càng suy, thì vật-chất càng thạnh. Tăng là giềng mối tâm hồn, là tinh-thần sanh-chúng, thế mà Tăng chia lìa, thất lạc, thì thần vật-chất, sao chẳng hoành-hành, chôn lấp chúng-sanh. Trần thế trách sao không nguy hại ?
Vậy muốn chấn-hưng lại đạo Phật trong một lúc, thì hãy thu hẹp lại sự tín-ngưỡng tông-giáo, tín-đồ, cũng như từ xưa, mở cửa thâu vào đã lâu, nay cũng nên đóng cửa tạm ngưng lại một lúc, để lựa chọn sắp phân lớp học ; chớ không leẽ đạo Phật lại là hỗn-tạp. Và nên phải bành-trướng giới-luật, khuyến-khích cư-sĩ xuất-gia, chỉnh đốn Tăng-già, thống nhưt thế-giới quần Tăng đại hội ; mới mong kéo nỗi đời vật-chất trở lại tinh-thần đặng, Tăng chúng phải đủ giới-luất để quy hợp cư-gia, để gắn liền Tông-giáo, hầu vẹt bóng mê tín, đem cõi đời trở lại ban ngày y như Phật hồi xưa khi trước.
Mỗi cư-sĩ đều có phận sự phải xuất-gia, mỗi tăng sư đều có phận sự phải dung hòa giữ giới, người hành chưa đặng, thì phải biết kính trọng những kẻ đang hành, phải hộ-pháp nâng cao tán-thán, chớ đừng gièm-pha ố chọi, hãy nghĩ đến đạo đến Phật, đến chúng-sanh, mà đừng kiêu sxa ém tội. Phải khuyến-khích người tu, phải giúp- đỡ người ta hơn mình, phải hợp tácvới họ, phải sữa chữa điều kém thiếu, phải nâng cao giới-luật, đó mới là phận sự của tăng bảo, mới gọi là tăng bảo không tạo tội. Phải tạo nấc thang cho người lên, phải chỉ bè mớ cho người đến, phải sắm tàu ghe để vớt người nguy, đó mới là phận sự chánh của Tăng-già, đối với cõi đời tràng giang đại hải, của chúng-sanh ngày nay đang lặng hụp. Thật vậy, chhỉ có tăng chúng mới lập đạo đặng, rồi thì các tông-giáo sẽ tự-nhiên thống nhất.
Còn nếu đạo Phật bằng chẳng đặn chỉnh-đốn y như vậy, thì âu là Tăng sư ai nấy hãy tách rã riêng ra, tu-trì độc-giác, khắc nghiêm giới hạnh, ở ẩn rừng sâu, cũng còn khá hơn là sự xuất-gia cẩu-thả, ở nơi thành-thị. Chi cho phải bị cư-gia hủy-mạ.
Có như thế, thì cái nạn chiến-tranh tông-giáo, tứ nay mới đặng dứt hết.
Tổ sư Minh Đăng Quang
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn