TAM GIÁO
|
THÍCH - ĐẠO - NHO
Đức Khổng-tử là một nhà hiền-triết, dạy đạo cư-gia. Ngài sanh ra thời giặc loạn của xứ Tàu, sau Lão-Tử 50 năm, tức sau Phật Thích-Ca 550 năm vậy.
Đức Khổng-Tử là người con chí hiếu, lúc nhỏ Ngài tập tành lễ-giáo, Ngài tập lể bái đến khòm lưng, gặp ai lớn nhỏ Ngài cũng lễ bái, cho đến cái cây, cục đá,Ngài cũng lễ bái nữa. Vì đối với Ngài lễ giáo là phép lịch sự , là phép thân-thiện là lòng thương yêu, là sự kính nể, tốt đẹp hơn hết. Ngài cho rằng : có lễ giáo, con người mới có thứ tự, có lòng nhân, mới sống chung nhau được. Chính lễ-giáo là sự nho nhã nhu-hòa, khiêm nhượng mềm yếu, dẻo-dai, mới là con đàng sống được.
Có nhu-đạo mới thành nhân-đạo, và nhu-đạo là sẽ thắng tất cả mọi thứ chiến tranh mạnh cứng, là phép sống đời trong những cảnh loạn ly, Nho-đạo cũng là sợi dây cột chùm tất cả cây cao để tránh nạn bão to gió lớn, cùng là sự xô-xát đập-đùa lẫn nhau.
Nho giáo là giáo-lý bình dân dẹp loạn trong khi có loạn, và là một giáo-lý lập gia-đình hay hơn hết. Cốt yếu của Nho-giáo, là loài người phải có lòng nhân, đừng giết hại lẫn nhau nên cũng gọi là nhân đạo. Theo giáo-lý ấy, mọi loài đều phải sống, khi đã có cái sống, và không ai nên làm cho ai phải chết, khi tự họ chưa chết ! Đành rằng sống là khổ , nhưng ngoài mặt đất này ra, ta còn biết phải đi đâu tránh khổ và nếu chết đi vì uất-ức, vì luyến-ái, thì còn phải khổ gấp trăm lần nữa vậy.
Thế thì ai cũng phải sống cả, và muốn mình sống, thì đừng giết hại người ; có không thù-oán , thì ta mới được sống yên, và ta không nên để gương ác, hại lại cho đời sau ; mà tất cả đều phải giữ - gìn một giới cấm nghiêm-trọng là : không nên sát sanh hại mạng.
Không sát sanh mới có lòng nhân- ái, mới được gọi là nhơn loại ! Mới có khác với buổi ban đầu, và là đã tiến-hóa lên cao một nấc, khác cổ-nhân.
Cũng vì sự khuyên can chém giết lẫn nhau, mà đức Khổng-Tử dạy về đạo Tam-cang và phép ngũ-thường, cho trong gia-đình xã-hội; Ngài bày ra sự quan-hôn tang-tế cho loài người, Ngài dạy trẻ nhỏ thành nên người lớn. Ngài dạy con thú trở nên người ta, Ngài dạy kẻ ác trở nên người thiện, Ngài làm cho tất cả phải sống. Giáo lý của Ngài cũng như bọc thai ; luật pháp của Ngài như lòng khám, để nhốt đậy giữ yên, cứu sống mạng người trong cơn khủng hoạn.
Đạo nhơn nghĩa của Ngài, mục đích để kết liền sự sống giữa ta, người, gia-đình, xã-hộị, thế- giới và cả chúng-sanh chung, từ nhỏ tới lớn , từ ít đến nhiều, và cả chúng-sanh chung, từ nhỏ tới lớn, ,từ ít đến nhiều, và như thế là phải thương yêu nhau tất cả,từ hẹp tới rộng, để cho không còn tai nạn.
Ngài cho rằng : vạn-vật ta làm cho tốt được, thì ta cũng phải làm sao cho tâm ta được tốt, có như thế, vạn-vật mới ở bền với ta, ta mới có được vạn-vật ; giáo-lý ấy tức là đạo của Ngài, tức là Ngài bảo thủ thuyết “CÓ !” Có ta, có vạn-vật, ta và vạn-vật đều phải trọn lành tốt đẹp, có mãi, giữ mãi, sống mãi. Vật hư làm cái khác, người chết sanh trở lại, tức là giáo-lý luân-hồi nhơn-quả : ta phải có, ta phải sống, ngày nay và ngày mai, phải luôn luôn tốt đẹp, có công mới có quả, công quả phải bằng nhau. Ấy là lý trung-dung của Nho-đạo.
Theo giáo-lý đức Khổng-Tử, thì kẻ nhỏ phải học Nho giáo, người lớn phải thật hành Nho-giáo,và ông già thì đem Nho-giáo dạy lại trẻ nhỏ, phải đem Nho-đạo lập thành cõi đời, phải lấy Nho-đạo làm phong-hóa, Nho-đạo phải là con đường cái của nhân loại.
Theo Nho-đạo, thì người ta phải đứng tại lớp người, chớ đừng lui tại lớp thú, và cũng là chưa biết phải đi tới đâu. Đức Khổng-Tử khi xưa, Ngài chỉ biết thời hiện-tại, việc gì cũng phải vay trả cho xong,trong ngày hiện-tại, trước mắt, mà Ngài cho rằng : ta phải khiêm-nhượng, mà đừng ngó tới xa quá của bậc Trời Phật lớp trên, và cũng chớ quay lui trở lại lớp thú, nghĩa là con người phải biết lấy địa vị, việc làm của mình hiện-tại, mà đừng nhắc việc quá-khứ vô-ích, hay là luận việc vị-lai không công mà chi. Cũng như học trò, cứ lo phận sự học-hành theo bài vở của mình cho xong, là được lên lớp, chớ nói luận làm chi rộn nhọc.
Như vậy nghĩa là : Nho giáo tiến, chớ không phải thủ, mà là tiến bằng cách chẩm-rãi, dè dặt thận trọng.
Trên Nho-giáo là Lão-giáo, trên Lão-giáo là Thích-giáo, nghĩa là : trên người là Trời, trên Trời là Phật. Nho-giáo là lớp ba, Lão-giáo lớp nhì, Thích-giáo lớp nhứt, trong một trường đạo có ba lớp, mà chổ đến có một mục-đích là bỏ khổ tìm vui vậy.
Bởi sau đức Phật 500 năm, nên đức Lão-Tử noi gương đức Phật hành-đạo độc-giác một mình, mà nên đạo bằng phép thần-thông, huyền-bí, siêu-hình.
Còn Đức Khổng-Tử, ,sau đức Phật 550 năm nên học theo Phật về pháp cư-gia độ-thế. Và bởi Ngài sanh trong thời-loạn nên mảng lo đi cứu-giải chiến-tranh, mà không có dư thì giờ tu học. Kịp đến Ngài già gần chết, mới nói đến sự tu, thì ôi thôi trễ muộn. Đức Khổng-Tử cũng trọng Lão-Tử và Phật Thích-Ca Mưu-Ni lắm. Đức Lão-Tử cũng trọng Phật Thích-Ca vô cùng [c1]; hai Ngài đều là đệ-tử Phật Thích-Ca, chính Lão-Tử là kẻ xuất-gia tu thiền-định và đức Khổng-Tử là tu hạng cư-sĩ cứu đời, tuy hai Ngài không gặp Phật, mà là sự thật hành đúng y giáo-lý của Phật ban hành từ trước. Hay cũng có thể nói là hai ông thầy giáo lớp nhì, lớp ba, sau ông thầy giáo lớp nhứt, là Phật vậy.
Đức Khổng-Tử cũng như cánh tay mặt của Phật, đưa ra để cứu mạng sống chúng-sanh trước đã.
Đức Lão -Tử cũng như cánh tay trái của Phật, để giữ lấy tâm, tu thiền-định, nuôi chơn như bản tánh.
Còn Đức Phật như cái đầu chính giữa, có cả mắt, tai, mũi, miệng, gom chứa cả chúng-sanh thâu dụng.
Vậy nên Tam-giáo là một đạo, ba Ngài cũng như một ; hai lớp sau về lần theo lớp trước, và bởi do lớp trước mới có hai lớp sau, các lớp có ra, là do tùy nơi căn-cơ trình-độ của chúng-sanh thấp kém mà lớp dưới phải mở bày ra để lần đưa lên lớp trên chỗ một.
Giáo lý của Đức Khổng-tử, không thể dạy được bậc đã thiện rồi hay như bậc ông già lớn tuổi, như bậc quân-tử, mà là giáo lý sắp đặt chế trị, nghiêm-luật, lo cho đám trẻ nhỏ côi hoang thôi. Nho-giáo là giáo lý cần sống, thiện để sống, và rồi sống để chịu khổ vậy.
Nho-giáo là giáo-lý sống tạm theo thời, nên cũng kêu gọi là đời, hay đường đời, giáo-lý tạm trong lúc chiến-tranh mà không dùng được trong khi yên-tịnh. Nếu sống mà không học, thì có khác nào người hiền mà chưa có con mắt, sẽ nguy hại biết bao. Sự học của Nho-giáo là lo cái sống, chớ chưa học đến chơn-lý võ-trụ, và các pháp trong thế-gian, cũng như cái học chỉ giữ có một quyển-sách, một bài, thì dùng không được trong những việc khác trở ngại.
Theo Giáo-lý của Đức Khổng-tử, Ngài bảo con người đừng tham lam, nhưng người lại dạy phải bảo thủ cái đó , phải giữ gìn vật-chất có khác nào là tích-trữ nguồn-gốc của sự tham-lam, tranh cạnh ?
Ngài bảo người ta đừng giết nhau, phải cần sống, tức là xúi con người tham sống, mà hễ tham sống cho mình, thì sao lại chẳng đi hại kẻ khác !
Ngài bảo người ta đừng hơn thhua, nhưng Ngài lại dạy mỗi người có danh-lợi, có khác nào là đốc xúi sự chen đua, lấn áp lẫn nhau.
Ngài bảo người ta đừng chia rẽ, nhưng Ngài lại đặt tên xã-hội, tên gia-đình, tên quyến-thuộc bà con, tức là sự phân chia khác biệt ta và người. - Thì hỏi thử làm sao mà bình yên được ?
Ngài dạy người ta phải sống, nhưng nào có thấy ai được sống mãi, Ngài dạy phải chấp có, nhưng nào ai xưa nay, có thấy cái chi thường bền, ,có mãi đâu. Vì thế nên đức Khổng-Tử, Ngài mới thất bại nơi nước Lỗ, cùng 72 vị chư-hầu xưa không trọng dụng, và cũng như khi hầu chuyện với Lão-Tử, Ngài thấy Ngài nghẹt lối, nói không thành lời.
Ngài thật hành và chủ-trương theo giáo-lý trị thế, cũng thật hay, nhưng kẻ đời sau, hiểu lầm nơi giáo-lý của Ngài, xưng gọi đệ-tử Ngài, mà họ đi làm giặc loạn, để bôi lọ, vẽ mặt, phá hại đạo Ngài, thật đáng tiếc.
Cũng vì thế, mới có kẽ dám nói : Đức Khổng-Tử sợ người ta chia rẽ làm giặc nhỏ, mới bày lập gia-đình xã-hội, binh đông để làm giặc lớn, giết chết một lần cho gọn. Những kẻ ấy trách quá đáng, họ biết đâu người hư, chớ nào phải đạo tệ, bởi đời sau tại kẻ học hiểu lầm, hành sái, vì cho bấy nhiêu là đủ, mà không chịu tìm kiếm lớp Trời, Phật học thêm, mới phải có tai nạn, là tự họ vậy. Mà cũng phải có như vậy, thì giáo-lý của Lão-Tử, mới được nổi danh hơn, và người ta mới biết Trời là cao quý hơn người ! Còn Phật thì cao siêu hơn Trời kia nữa.
Đức Lão-Tử, thật là khác hẳn đức Khổng-Tử, Đức Lão-Tử thì lưng ngay, đàu thẳng, trọn đời chẳng biết cúi khòm, tánh cang-trực của Ngài, không sợ ai ca, cho đến bị người ta đánh đập, mà Ngài cũng chẳng một tiếng kêu xin; Ngài tin công-lý, Ngài muốn tìm hiểu chơn-lý của võ-trụ. Ngài cho chúng-sanh vạn-vật vốn vô quyền, vô tri, ai cũng như ai, cái gì cũng như cái nấy mà thôi. Hoặc may chúng-sanh vạn-vật có khác nhau, là chỉ nơi giáo-lý danh-từ tạm, nơi thể tướng tạm bên ngoài, chớ tất cả đều là một linh- hồn, ai ai cũng là tâm hồn như nhau hết, dầu trình-độ cao thấp, chớ rốt cuôc rồi cũng vẫn như nhau, bằng nhau, còn xác thân dầu là của người thú, hay cỏ, cây, cả thảy đất nước lửa gió, chớ không có chi danh vọng. Dầu người ta không giết thì nó cũng tự chết lấy, nên giết mà làm gì, giết hại thù oán mà chi. Vì có ai giết hại tâm hồn ta đặng đâu, mà hòng lo sợ. Đức Lão-Tử sống bằng một tâm hồn, có ba phần : linh, giác và thần.
Tức là Ngài sống bằng siêu hình, và Ngài tách mình ra khỏi đám nhục-dục thấp thường, mà sống riêng nơi núi non thanh vắng, hang động, im lìm. Ngài là kẻ chết, Ngài là kẻ không tham muốn gì hết. Ngài chỉ muốn sự thanh nhàn tĩnh mịch, để dưỡng tâm yên lặng trong cõi huyền-bí thôi. Ngài cho rằng : cuộc đời vô ích, và giả - dối, ai ai rồi cũng thất bại cả ,vì cái có, là đang ở trong cái không - không bao chụp, như vậy là Ngài chấp không, cả thảy đều không, Ngài ở trong cái không, được vui sướng chơn thật hơn.
Giáo-lý của Ngài, là chết vui, hơn sống khổ, và không có xã-hội, gia-đình, quyến-thuộc, bà con, của cải, miếng ăn, danh lợi gì cả. Vì chúng sanh là những linh-hồn, và vạn-vật là đất nước lửa gió thôi.
Đối với Ngài, thì chúng-sanh không ai lo cho tâm hồn ai được, mỗi người phải tự lo lấy, cũng như không ai giết tâm hồn ai được, vì là nó tự sống lấy, thì phiền-lụy với nhau mà làm gì, giáo-lý ấy là đạo của Ngài ; Ngài kêu nó là đạo, vì nó là con đường cao-ráo, chỗ cứu vớt kẻ trầm-luân, những kẻ đã bị trầm-luân, trong chốn biển ô danh-lợi của cái có, cái ác, cái tham, cái lún sâu không bờ bến, không nơi nương dựa, không rồi, không kết quả mục-đích, Đạo-giáo của Đức Lão-Tử, là lớp trên cao hơn Nho- giáo, và là đối nghịch với đời. Người học Nho mà bước lên lớp này, thì phải bỏ hết sở-chấp, mà chỉ phải còn dùng cái trí, cũng như lên lớp trên là phải bỏ hết bài vở cũ của lớp dưới, mà chỉ mang theo được cái trí thôi.
Giáo-lý của Phật như mặt trời.
Giáo-lý của đức Lão-Tử như mặt trăng.
Giáo-lý của đức Khổng-Tử như ngôi sao.
Giáo-lý của đức Khổng-Tử và Lão-Tử tuy còn là lớp tạm, không thật, nhưng giáo-lý của đức Lão-Tử, thì sáng rõ hơn nhiều, cũng như mặt trăng thì sáng hơn ngôi sao, tuy vậy chớ cũng còn đêm tối, chưa được sáng rõ như mặt nhựt. Nghĩa là chưa bằng giáo- lý giác ngộ của Phật, chỉ rõ tất cả sự thật của ban ngày.
Theo đạo-giáo của đức Lão-Tử, thì ta phải lo tu tâm, lánh bỏ cõi thế đời giả-dối, chiêm bao, mà đừng mải mê đeo theo gánh hát diễn trò , mang râu đội mão, nó chỉ là sự khổ-sở vô-ích, không rồi, thất bại , lếu rộn.
Vì hễ việc chi càng lo, là phải lo mãi, việc có hoài ; còn bằng không lo, thì càng khỏi lo và không có chi hết. Việc đời cũng y như vậy, sợ gió làm động mặt nước, lấy gió trừ gió, làm cho gió lớn mãi, gió khắp cùng. Vậy tại sao chúng ta chẳng gọi là không rồi thì sẽ không có gì hết, cho được thanh nhàn yên lặng, có thong-thả hơn không ?
Vậy nên theo giáo-lý của đạo Lão-Tử , thì người ta hiền rồi, là phải đi tu, ông già là phải đi tu, làm người là phải đi tu, khi thái bình rồi, là phải đi tu ; vì hiền rồi mà không đi tu là khổ và sẽ ác trở lại.
Ông già mà không đi tu, là khổ và sẽ làm trẻ con lại. Thái-bình rồi, mà không đi tu, là khổ và sẽ sanh chiến-tranh lại
Như thế thì giáo - lý của Đức Khổng-Tử, là gom chúng-sanh lại để đừng chia rẽ, sanh loạ nhỏ, lúc ban đầu.
Còn giáo - lý của đức Lão-Tử chia rẽ chúng sanh ra, để đừng có giặc loạn to, lúc về sau : nghĩa là : khi chia rẽ mà loạn, thì phải gom hiệp lại, cho bình - yên ; về sau khi hết loạn rồi mà số đông gom hiệp, ở lâu sanh loạn, là phải chia rẽ ra trở lại - Dầu ly hay hiệp đều là pháp thái - bình tạm mỗi lúc, để nối tiếp sự bình yên mãi mãi. Như thế là pháp phải thay đổi luôn luôn theo thời duyên, chớ không nhứt định được.
Cái hiệp của đức Khổng - Tử, là để cho thân sống, chớ không phải để làm loạn chết thân tâm.
Cái lý của đức Lão - Tử, là để cho tâm sống, chớ không phải để chịu khổ chết tâm thân.
Gồm cả hai pháp, thì thân tâm đều sống mãi, Ấy cũng vì muốn thiện mới hiệp, và vì trái cảnh, muốn thiện là phải ly, chớ không phải ly để loạn, hay là hiệp để hại lẫn nhau, theo lẽ ác.
Cũng như đức Khổng - Tử làm cho thái - bình và đức Lão - Tử thì tiếp thêm làm cho thái - bình vĩnh - viễn ; mà hai pháp ấy thiếu một cũng không được : vì hai Nho, Đạo ấy thiếu một, cũng không được vì thiếu Nho- giáo thì không thì không thái - bình và thiếu Lão - giáo, thì cũg sẽ sanh loạn trở lại. Cũng như kẻ cầm binh - khí, là để ra trận mạc, khi không có chiến tranh, mà còn cầm binh - khí là chính tự họ sẽ làm loạn tiếp tục kế đó. Vậy thì sự lìa bỏ binh khí, khi hết loạn, tức như sự giải - thoát đi tu của Lão - tử , trong thời thái - bình, thật là đúng lý. Cũng như Trương - Lương công thành thân thối, là hay quý.
Đức Khổng - Tử sanh trong thời loạn. Ngài dẹp loạn rồi mới đi tu.
Đức Lão - Tử, sanh trong thời bình. Ngài đi tu là cho được bình yên, mãi mãi, giáo - lý thay đổi khác hau theo thời duyên, thật là quý hay, hữu ích lắm vậy. Giáo -lý của hai Ngài là đạo của thân tâm, là đạo của tất cả chúng sanh, đạo ấy là lẽ sống vui trên mặt đất cho đế ngày hôm nay.
Đức Phật cũng dạy đúng y như thế :Thân thì phải chung hợp sống chung, tâm thì phải tự ai tu riêng ấy.
Cũng như cây cỏ xác thân thì tựa lấy kề nhau, còn tâm thì ở riêng trong mỗi xác thân ; trong đời ai muốn chết, mà chớ đến Đức Khổng - Tử là họ tự sống trở lại ! Ai quá khổ, mà nhớ đến Đức Lão - Tử, là họ liền vui trở lại. Hai Ngài là xác thịt và linh - hồn của chúng sanh, của mỗi người, mà không ai có thể quên thiếu một phần nào được cả.
Về thuyết có Đức Khổng - Tử, thật là có hoài, có mãi giáo - lý là việc thật cực - nhọc, nhiều lắm, mà sự kết quả lại ít hơn. Vì tình nghĩa gom họp là việc nhỏ nhoi số ít. Còn chúng - sanh đông nhiều thì không hiệp được, dầu thân có hiệp, chớ tâm chẳng bao giờ hiệp, thì làm sao số đông xã - hội mà ép buộc cả thảy các thứ tâm ý cho nhau, trách gì giáo - lý có, của Đức Khổng - Tử chẳng làm cho xã hội không bền vững, mà trái lại giáo - lý Nho đạo, dùng lập gia - đình cỏn con thì hay, đúng lắm. Thế mới biết rằng : việc chi có sắp đặt, có trật - tự, có cai - trị là chỉ được cho số ít thôi. Như thần quyền chúa tể, thì không cai - trị cả chúng sanh được. Cũng như ông thầy giáo lớp chót , đối với học trò sơ cơ khờ dại thì phải dùng luật để trị, kẻ tiểu nhân ấy, trong một số ít ; chớ với các lớp lớn trên cao kia, thì pah3I lấy lễ mà đãi họ, chỉ phải chăm lo dạy họ, để ọ tự tu tự sửa lấy, chớ không dùng quyền luật đối với họ nữa, vì họ biết tự tu tự trị lấy họ, nào phải cần ai ép buộc.
Vả lại ở lớp dưới, học trò đông, mà đứa nên rất ít; ở lớp trên học trò ít mà đứa nên nhiều; lớp dưới thì khó dạy màphải trị, lớp trên thì không trì mà dễ dạy, được là cũng bởi nhờ sự rèn luyện của lớp dưới buổi đầu, để đưa lên lớp trên, cái trang nghiêm tốt đẹp ấy.
Giáo lý Lão Tử lớp trên, Ngài chỉ nói về lý “ không”. Ngài không có mệt nhọc lo lắng gì cả, Ngài bảo mỗi ai tự lo trau tâm lấy mình , Ngài bảo người ta bỏ thế sự, danh lợi để trau tâm, thì tất cả đều nghe theo, và cả xã hội, tự ai nấy lo trau tâm, là được yên vui tất cả. Vậy nên giáo lý Lão Tử là dạy về xã hội số đông hay hơn hết, mà lại khỏe khoắn, không mệt nhọc chút gì .Người ta cũng nói đức Khổng Tử chuyên dạy về bình dân, làm cho dân không loạn, về phép nội trị trong nước.
Còn Đức Lão - Tử thì chuyên dạy vua quan trí thức, kẻ cầm đầu, hay cũng như con rắn, ta chỉ bắt khúc đầu. Sự thật như vậy, kẻ bề trên mà biết tu tâm, cũng đủ cho muôn dân được hưởng nhờ hạnh - phúc, và giặc giã không từ đâu phát sanh ra được nữa. Và bậc vua quan mà còn phải lo tu, thì dân giã đâu còn ai dám ham muốn cái vua quan theo như người ta hiểu lầm cái vua quan là danh lợi, mà sự việc của quan là khổ sở, là tôi tớ của dân khờ , là nạn tại của cướp trộm, bởi sự hăm he thù oán và mãi lo lắng giữ gìn của cải thân mạng cho muôn loại, bằng cách chẳng công ơn, da94 bị bân rỗn mãi cho ai mà không còn đường tấn hoá cho mình đi kịp. Kẻ lãnh trách nhiệm của cha anh, của người cha anh tuy sướng thân một chút, mà thật là lao tâm khổ trí. Bổn phận cha anh, không phải dễ hành đúng thì cũng khổ, mà hành không đúng thì cũng khó lòng, khổ nhất là mãi lo ăn ở cho đàn em bất trị, không rồi, không xong gì cả mà trái lại chúng oán hờn.
Phương châm của Đưc Lão - Tử là chỉ cho cái tâm hồn, lo cho lúc sau khi chết và hiện tại là không có vạn vật là không thường, giáo lý ấy an ủi rất khéo, làm cho người ta quên hẳn sự khổ của hiện tại nhất là làm cho các ông già, những người chán nản thất bại, được vui sướng mà sống lành thêm, tức là tạo thêmtâm hồn từ bi - hỉ -xả cao thượng, mà kẻ sống như thấy mình đã chếrt, nên thông thả an nhàn, sung sướng lắm họ không còn có thấy cái gì nữa trong thế gian, họ đang ở trong cái không- không tuyệt đối, nên khỏe nhẹ và sáng suốt thông minh lắm. Họ sống bằng lý trí, vui với lý trí, ngoài ra họ không biết gì - gì cả.
Đạo Khổng và Đạo Lão, có ra là do là đạo Phật, vì trình độ chúng sanh không theo được đạo Phật nên đức Lão Tử mới bày ra đạo trời, và cũng bởi người ta không theo được đạo trời nên Đức Khổng - Tử mới bàyra đạo người để đến với đạo Trời; đạo trời là để đến với đạo Phật. Tức là ba lớp học của chúng sinh đời nay .
3) Đức Phật Thích - Ca Mâu -Ni , Ngài dạy gồm cả xuất - gia và tại gia, tức là Ngài dạy cả hai pháp, của Khổng - Tử và Lão - tử, Ngài không chấp một bên nào cả, Ngài giữ mực trung, nghĩa là : Ngài cũng có dạy cho cả hai bên theo nhân duyên. Vậy nên nói : Khổng giáo là đạo Phật cũng được, hay là đạo Phật là Khổng - giáo., Lão giáo cũng được.
Đức Phật được siêu việt hơn, bởi Ngài đã thật giải thoát đến chơn như và toàn giác. Ngài đứng ngoài tất cả chúng sanh, vạn vật và các pháp, nên Ngài không còn lầm lạc. Ngài biết khắp vũ trụ. Ngài không đem mình làm phận sự gì hết, Ngài chỉ bảo lạc lầm cho ai nấy thôi. Ngài không dòm ngó về sự chế t sống , Ngài cũng không chú ý đến sự khổ vui. Ngài cũng không lấy bỏ ai hết, Ngài cho rằng : Cõi đời ra sao cũng được. Ngài chỉ muốn cho ai nấy lần lần được sự giác ngộ biết sáng như Ngài. Vì hễ giác ngộ ròi thì không còn sở chấp, là sao sao cũng được cũng xong thì sự chết sống khổ vui, đến đi còn mất, có không, vinh nhục, lợi hại, chẳng ăn thua gì.
Chúng sanh miễn giác ngộ rồi là được, trong đời đã sẵn có công lý của bản tâm, nghiệp nhơn thì có quả, miễn là ai nấy đừng mê muội, rồi thì khổ hau vui, họ cũng an lòng lấy, và tự họ sẽ đi lần lần theo con đường giác ngộ của họ.
Cũng giống như Đức Khổng - Tử, vơí cư gia Phật dạy cấm sát sanh là trước. Cĩng giống như Đức Lão - Tử với xuất gia Phật dạy cấm dâm dục là đầu,
Ngài cũng cho rằng : Cõi trời vô sắc giới, sắc giới và dục giới là cao hơn cõi người dâm giới. Không dâmdục chẳng sanh, thì đâu có giết ! Không có giết, thì đâu có sanh. Nó là đầu đuôi của nhau : Cũng như không có ác, đâu có khổ, và không có khổ , đâu có ác ! Đức - Phật chỉ nếp bàn là trung đạo chánh đẳng chánh giác mực giữa, chứ không phải thấp cao xa gần chi cả. Chính cõi Niết - Bàn, là lòng từ -bi bình - đẳng, tất cả chúng - sanh chung là sự trong sạch không nhơ uế, là sự sáng láng, của trí tuệ, là sự yên lặng của tâm chơn, chớ không phải ở đâu cả. Đức Phật dạy chúng - sanh phải biết ở trong bản tâm, yên lặng của mình chớ đừng ở đâu hết, vì chỗ nào cũng không bền. Và chỉ có cái chơn như, mới là giải - thoát tất cả luân - hồi sanh tử mà thôi. Ngài chỉ rõ sự sống của chúng - sanh, sanh ra bởi nhơn duyên,con của tứ đại. Kìa như những cọng cỏ sanh ra bởi đát, thì nó chỉ là cái sống tự nhiên vậy thôi, chớ không có gì bận rộn cả. Cũng như Ngài muốn nói, chúng - sanh là những cọng cỏ, cọng cỏ lúc đầu chưa biết chi cả nên gọi trơ - trơ, nhưng về sau càng tiến tới theo thời gian, chúng - sanh càng lầm lạc khổ - sở tai -hại , rốt lạisau khi đã giác ngộ rồi thì cũng còn sự trơ trơ của cái biết, mà không còn cử - động, chi cả, trở lại như cọng cỏ buổi ban đầu. Vì bởi không ác thì khỏi thiện, không tham-lam thì khỏi bố thí, không giết thì khỏi cứu, không mê thì khỏi tỉnh, không giận hờn thì không nhẫn nhục, không giãi đãi thì khỏi siêng năng : như thế là bao nhiêu việc của chúng ta cực nhọc lay-hoay, trong nhiều đời kiếp, chỉ khổ công mà không có ích hay gì ráo. Vậy nên giác ngộ rồi, là trơ-trơ, trơ-trơ có phải đở hơn không ? Thật vậy, không có ghét thì đâu có thương, kẻ nào trong tâm bằng thẳng, trơ-trơ yên lặng như đầy đủ, thì không bao giờ có sự dư thiếu ấy. Mà trần-thế là cõi yên lặng trơ-trơ chớ không có việc gì.
Tại sao tâm ta thiếu ? Là tại bởi ta bỏ bớt ra, chẳng phải thiếu ! Tại sao tâm ta dư ? Là tại bởi ta thêm lấy vô chẳng phải dư ! Và như thế, là ta đã lầm lạc tai nạn rồi đó, thật vô-ích lắm. Chớ chi ta hãy để tâm tự-nhiên, nghỉ ngủ bằng thẳng chẳng là yên ổn hơn không ?
Tại sao chúng ta chẳng xét nghĩ, là mặt đất chung, cọng cỏ sống chung tự do, sống ở, chết đi, khi đây, khi đó, do nhơn-duyên không sắp đặt, và cái biết là để học, học với tất cả. Cái sống, là để sống, an-nhàn với tất cả. Cái linh là linh-diệu thần-thông, phải để tự nhiên kín-đáo cho nó linh thiêng mầu nhiệm, huyền-bí bao-la, để cho tâm ta được trơ-trơ bằng-thẳng. Giáo-lý của Đức Phật là dạy chung sống, chung học, chung cả cỏ, cây, thú , người, trời, Phật, tâm bình đẳng, sống cho nhau, thi ân đừng cầu báo, phải trao đổi lẫn nhau, diệtt trừ ý nghiệp, dứt bỏ tham, sân, si, tâm đừng vọng động, Ngài dạy cả thế-giới chúng-sanh chung đúng lắm; theo Phật dạy : cả thế-giới chúng-sanh yên vui, thì xã hội mới yên-vui, xã hội yên vui , thì gia-đình mới yên vui, gia đình yên vui, thì mình mới yên vui. Như vậy nghĩa là : ta ở trong tất cả, ta phải sống với qúa khứ, vị-lại và hiện-tại, nghĩa là : ta phải sống với tất cả v.v… sống bằng sự dứt tham ái, giữ tâm an lạc. Vì thế mà khi xưa Đức phật bỏ gia-đình xã-hội, để sống chung với tất cả, Ngài giải-thoàt giáo-lý gia-đình, xã-hội tông-giáo, và Ngài cũng giải thoát cho chúng-sanh luôn… Cũng như một người thợ săn kia, lúc đầu lùa bắt những con le -le, đem về gom một chỗ tạo sắm chuồng bồ, nhốt lại, trước là thương vì nó lạc loài bơ-vơ đói khát, và sau là nuôi nó mỗi ngày rãi thóc cho ăn, lùa cho đi uống, lấy công lao ấy, mà có thịt ăn; mỗi ngàyăn thịt một con mập tốt, xúi chúng sanh săn cho nhiều, bồ lúa trước mặt, chảo nước sau lưng …
Nhưng một hôm người gặp một con chim đại-bàng bay liệng trên cao, chim ấy nói rằng : mình là con vịt ốm yếu, bịnh hoạn trong đoàn, bị vất thải lạc rơi vào bụi rậm, nhờ đó mà được rảnh rang đi tu trong rừng kín, nhịn ăn nên lông dài bay được. Điều ấy, làm cho người thợsăn, thấy mình thua kém xấu xa, và khổ-nhọc tội-lỗi, thế là sau này, người mới phá hết chuồng bồ, thả hết bầy vịt, bảo chúng đi tu, và người cũng đi tu nữa. Chính không phải người tha chúng làm ơn, mà là người không muốn làm tội thêm nữa vậy. Cách đó chẳng bao lâu, người ta thấy trên nền trời ấy, có một bầy chim đại-bàng, do một đoàn chủ cầm đầu, bay khắp cùng xứ, và tản lạc ra đầy trên thế giới.
Ngưòi đó tức là Đức Phật Thích-Ca Mâu-Ni thành phật; bầy chim ấy là đệ-tử đắc-qủa của Ngài, con chim đại-bàng trước hết là đức Phật Ca-Diếp, chuồng bồ là Giáo-lý, gia-đình xã-hội. Đức phật trong nhiều đời trước kia, tu hạnh cư-gia giống y như đc Khổng-tử, gom hiệp,luà ví, chúng-sanh lại ở chung, tạo pháp-luật giia-đình, xã -hội, làm chuồng lồng, nuôi dân bằng lợi lộc, như thóc lúa, lấy nước danh dơ bẩn mà tắm người ta. Bày xúi sự sanh sản vui chơi, để mà thủ lợi, đền cho công c án. Lâu ngày người ta quuên lịch-sử buổi ban đầu, nhận lầm quyến-thuộc bà con chổ ở, lập nên sự nghiệp, tô đắp c ho thân mảng ham ngon, tốt, béo, no, mà thân mạng có ngày chết luộc. Ngài thấy Ngài tội-lỗi, không nở hưởng miếng mồi ngon, để cho chảo dầu danh lợi đốt nấu con người, Ngài xem gương giải-thoát của Phật Ca-Diếp, mà Ngài xuất-gia, dùng giáo-lý của Ngài, phá tung tủ khám, địa ngục của Ngài, mà giải-thoát luôn cho tất cả. Ngài không nỡ làm vua bằng thịt máu, của ngưòi khờ dại. Ngài đi xin ăn để phá cái sở chấp của gia-đình xã-hội, cha mẹ vợ con, tiền của, ta và người, danh và lợi; Ngài đi xin ăn để giải-thoát, nhẹ bay khắp cùng đây đó, sống chung, dạy học chung, thương yêu chung, bình- đẳng đại-đồng bác ái.
Vì bởi Ngài làm được việc đúng chơn-lý ấy, Ngài bỏ tất cả giai-cấp thế quyền danh-lợi, nên chúng -sanh thảy tôn Ngài là Phật. Và người ta theo Ngài, thờ Ngài mãi-mãi, thờ cái tâm trơ-trơ bằng thẳng của Ngài.
TÓM LẠI : Đạo là con đường từ đầu tới cuối, đức Phật Thích-Ca, đã đi đến cuối đường, đức lão-tử còn đang đi chặng giữa, đức Khổng-Tử mới bước đến khoảng đầu, trong ba cảnh ngộ của bachặng, tức là ba giáo-lý của một con đường, đường ấy là : đường Khất-sĩ của chúng-sanh; mà đức Phật là bậc y-bác chuyên môn,, đức Lão-tử cũng là bậc mang áo, ôm bầu, còn đức Khổng-Tử, thì lưng cơm, bầu nước, khó-bần, nho-sĩ.
Nghĩa là : Đức Phật là thầy dạy đạo Khất-sĩ .
Đức Lão-Tử là đang tu, thật hành Khất-sĩ.
Và đức Khổng-Tử, là đang tập hạnh Khất-sĩ, mới khởi hành. Khất-sĩ, là đạo của tam-giáo; là chơn-lý võ-trụ, là đạo của tâm người, của chúng-sanh chung, của tất cả, đến với tất cả. Mà không ai phải là xin học, Khất-sĩ ! Có xin học mới sống yên vui, không tội lỗi.
Khất-sĩ là đạo.
Cư-sĩ là đời.
Đời sẽ về y theo đạo.
Nho giáo xưa kia ! Khổng, Tăng, Tư, Mạnh mới thật là người hiểu đạo Khất-sĩ của chư Phật hơn hết.
Tổ sư Minh Đăng Quang
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn